Phân tích chi tiết tác phẩm SÓNG - Xuân Quỳnh

SÓNG

Xuân Quỳnh

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Tác giả:

Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ tình yêu là một mảng đặc sắc và rất tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh - một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Trong thơ Xuân Quỳnh khát khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm lo âu, những mong manh, bất ổn...

2. Tác phẩm:

Sóng là một trong những bài thơ thành công nhất của Xuân Quỳnh về để đề tài tình yêu, được viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào 1968. Bài thơ thể hiện chân thực, tinh tế vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương gắn bó, một trái tim luôn trăn trở lo âu, một tấm lòng luôn mong được hi sinh, dâng hiến cho tình yêu. Bài thơ là sự vận động và phát triển song hành của hai hình tượng: sóngem là cái tôi trữ tình của nhà thơ, là hình tượng được miêu tả trong những cung bậc khác nhau của tình yêu. Sóng là hình tượng nghệ thuật được Xuân Quỳnh sáng tạo để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú vừa phức tạp của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu thương. Sóng chính là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim người phụ nữ đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của em... Hai hình tượng ấy khi phân đôi, khi hòa nhập, vừa soi chiếu sự tương đồng, vừa âm vang, cộng hưởng. Trái tim người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để nhận ra mình, thông qua sóng để thể hiện những rung động, đam mê, khao khát

II. TÌM HIỂU BÀI THƠ

1. Bốn khổ thơ đầu - Nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức những đặc tính, những phẩm chất, những trạng thái tâm lí bí ẩn, riêng tư, đầy nữ tính của một trái tim phụ nữ đang say đắm trong tình yêu.

1.1. Những câu thơ trong khổ đầu miêu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tàng những nét nghĩa ẩn dụ gợi sự liên tưởng sâu xa, tinh tế tới tình yêu của người phụ nữ.

- Nhịp ngắt 2/3 và sự đan xen các thanh bằng - trắc cuối mỗi vế câu khiến hai câu đầu như chao đưa giữa những đối cực:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Hai câu thơ có tới bốn tính từ mang sắc thái tương phản cả về ngữ âm và ngữ nghĩa đã gợi ra sự thất thường muôn đời của sóng; giữa từng cặp từ tương phản là từ cho thấy đại dương mênh mông vốn luôn hàm chứa, luôn tồn tại đồng thời những trạng thái đối lập, những thay đổi đột ngột, bất ngờ khi dữ dội, ồn ào, bão tố, lúc yên ả, lặng lẽ, dịu êm... Từng trạng thái thất thường của sóng đã gợi liên tưởng thật tự nhiên đến trái tim người con gái khi yêu, bởi cũng như sóng, trái tim vốn rất nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương của người con gái luôn bao hàm những trạng thái tâm lí đầy mâu thuẫn, phức tạp, thất thường với những vui buồn, nhớ nhung, mong ngóng, giận dỗi... Nhưng dữ dội, ồn ào là sóng mà lặng lẽ, dịu êm cũng vẫn là sóng; khi vui, lúc buồn, khi mãnh liệt sôi nổi, lúc dịu dàng đằm thắm, khi gần gụi như những con sóng âu yếm vỗ bờ, lúc lại xa xôi như những con sóng rời bờ, tít tắp ngoài khơi, tất cả những trạng thái thất thường ấy đều là những biểu hiện của tình yêu. Tình yêu luôn là sự thống nhất kì lạ của những mâu thuẫn, luôn mang trong mình những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp, đầy biến động, cũng bởi vì tình yêu muôn thuở có bao giờ đứng yên (Xuân Quỳnh); tình yêu đích thực luôn xa lạ với trạng thái thăng bằng, bình thản tới vô cảm. Sự thất thường vì thế không chỉ là đặc tính của tình yêu mà còn tạo nên nét duyên dáng, đáng yêu, tạo nên sự quyến rũ cho tình yêu người phụ nữ. Tuy nhiên, cấu trúc của hai câu thơ cũng bộc lộ tinh tế nỗi lòng người phụ nữ khi yêu: sau những dữ dội, ồn ào, cả hai câu đều kết lại bằng trạng thái lặng lẽ, dịu êm - người phụ nữ có thể vui buồn thất thường, có thể có những biểu hiện phức tạp tới khó hiểu trong tình yêu, nhưng điều cuối cùng họ khao khát hướng tới vẫn luôn là cảm giác bình yên. - Tới hai câu sau, sóng được đặt trong mối quan hệ với sông b:

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

* Có thể hiểu hai câu thơ ở những nét nghĩa khác nhau căn cứ vào chức năng ngữ pháp của từ Sông. Khi coi sông là một chủ thể cảm nhận, hai câu thơ sẽ là một câu ghép chính phụ, ý thơ sẽ là một tuyên bố mạnh mẽ và kiên quyết: nếu sống không hiểu nổi những khát vọng mãnh liệt của mình thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, từ bỏ một không gian có thể là quen thuộc, bình yên, tìm ra tận bể, nơi có sự đồng cảm lớn lao, nơi có thể tìm thấy một tình yêu đích thực sự. Người phụ nữ thường khao khát những bến bờ quen thuộc, bình yên của tình yêu song không vì thế mà cam chịu, nhẫn nhịn, họ đầy bản lĩnh để có thể chủ động, kiêu hãnh và quyết liệt hướng tìm sự đồng điệu, tri âm.

* Cũng có thể hiểu sông như một trạng ngữ chỉ không gian, nơi chốn, sông là bối cảnh, là hoàn cảnh sống, một yếu tố thường có sức chi phối mạnh mẽ tới tâm hồn, tính cách con người, lúc đó ý thơ thể hiện một cố gắng không mệt mỏi của sóng để có thể được sống đúng với Bản Ngã của mình: giới hạn chật hẹp của hai bên bờ sông làm bức bối những con sóng, trong lòng sông, sóng không thực sự là mình, không hiu nổi mình, không nhận ra mình. Sóng tìm ra bể lớn để thoả sức vẫy vùng, để trở lại chính mình giữa đại dương mênh mông, phóng khoáng, để có thể nhận thức được sức mạnh và những khát khao của mình trong những mãnh liệt của đam mê. Trong trường liên tưởng của tứ thơ, nếu sóng không còn là sóng bởi những giới hạn chật hẹp thì tình yêu cũng không còn là tình yêu nếu có những điều kiện, buộc ràng; người phụ nữ không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp; họ luôn khao khát khám phá chính mình trong tình yêu, khao khát một tình yêu lớn lao, khao khát được giải phóng khỏi mọi giới hạn để con người thực sự là mình, tình yêu thực sự là tình yêu. Như vậy, dù hiểu theo nghĩa nào, bản chất của tình yêu đều mang những nét tương đồng với sóng, đó là đều khao khát vươn tới sự mạnh mẽ, lớn lao, phóng khoáng, cao cả không cùng.

1.2. Nếu ở khổ 1, sóng được miêu tả trong không gian thì tới khổ 2, sóng được soi chiếu trong thời gian:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Sóng được đặt giữa ngày xưa ngày sau. Những khái niệm chỉ thời gian và ý nghĩa khẳng định của cụm từ vẫn thế đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng bởi trong thực tế, biển là một thế giới vô biên với vô vàn những con sóng vĩnh viễn xao động. Sự hòa nhập tinh tế các nét nghĩa ẩn dụ trong khổ thơ đưa người đọc đến một cảm nhận tương đồng giữa sóng và tình yêu: giống như những con sóng từ ngàn xưa cho đến mai sau mãi cồn cào trong lòng biển, mãi trường tồn và vĩnh cửu với thời gian, nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người cũng là khát vọng đã có tự muôn đời của nhân loại. Xuân Diệu từng khẳng định: Làm sao sống được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào! Hai câu thơ sau là một ẩn dụ tinh tế:

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Trong cảm nhận của người phụ nữ đang yêu khi đứng trước đại dương, mặt biển giống như vồng ngực trẻ trung, cường tráng của trời đất, sóng tựa nhịp thở phập phồng mang khát vọng tình yêu bồi hồi trong ngực biển. Hình tượng thơ làm hiện ra một tương đồng rạo rực: biển tựa như con người, sóng giống như nhịp đập của trái tim yêu đương, còn biển thì còn sóng, còn con người thì và khát vọng tình yêu. Cũng như những con sóng muôn đời dào dạt, sôi nổi trong lòng biển, tình yêu là khát vọng vĩnh hằng của con người, và mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Ngoài ra, cũng có thể hiểu chính những con sóng trào dâng cuồn cuộn khiến biển lớn muôn đời trẻ trung, tình yêu đem đến cho con người niềm vui tràn trề và sức sống mãnh liệt tuổi thanh xuân...

1.3. Giấu mình trong hình tượng sóng ở khổ 1, 2, tới khổ 3, 4, hình tượng em đã trực tiếp xuất hiện. Em được đặt trong sự đối diện với muôn trùng sóng biển, trước cái vô biên vô hạn của trời đất và tình yêu.

- Khi đứng trước cõi vô biên, người ta thường quên đi những cái nhỏ nhặt tầm thường, những lo toan vặt vãnh mà chỉ nghĩ đến những gì lớn lao, cao cả. Dòng suy ngẫm của mình đưa nhà thơ tới với những điều lớn lao, huyền diệu đang hiện hữu trước mắt, đó là biển lớn với sónggió cùng điều lớn lao, huyền diệu luôn thường trực trong lòng, đó là tình yêu với anhem:

Trước muôn trùng sóng biển

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

- Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng, rất đặc biệt của con người, tình yêu thường phát triển theo những qui luật chung của cuộc sống và qui luật riêng của tình cảm lứa đôi. Trước khát vọng tình yêu mãnh liệt, trước sự kì diệu của tình yêu, con người thường có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong lòng nó và luôn muốn cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lí không dễ giải thích bằng những lí lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời chính xác về nguyên nhân, về khởi nguồn của tình yêu, đúng như sự băn khoăn của Xuân Diệu: "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?". - Tâm hồn luôn trăn trở của Xuân Quỳnh cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về mình cùng những băn khoăn suy ngẫm về tình yêu. Suy ngẫm hiện lên trong các câu hỏi về sóng: Tự nơi nào sóng lên?, về gió: Gió bắt đầu từ đâu? và sau cùng lại trở về với câu hỏi muôn đời: Khi nào ta yêu nhau? Những câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa suy ngẫm của con người tới vô tận. Câu hỏi đầu tiên về sóng, lời đáp dễ dàng, chóng vánh: sóng bắt đầu từ gió. Câu hỏi thứ hai riết ráo hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn trăn trở đến tận cùng: nếu sóng bắt đầu từ gió thì gió bắt đầu từ đâu? Câu trả lời xuất hiện nhưng lại mơ hồ chơi vơi giữa hai câu hỏi về gió và tình yêu:

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau?

Câu trả lời chung Em cũng không biết nữa cho thấy cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không thể cắt nghĩa, đều không có lí lẽ hay qui luật - nếu có thì đấy cũng là qui luật riêng của trời đất, lí lẽ riêng của tình yêu. Em không biết gió có từ đâu, em không biết những xao xuyến của trời đất có từ bao giờ, cũng như em không biết khi nào ta yêu nhau, càng không thể cắt nghĩa: vì sao ta yêu nhau? Đây cũng là một qui luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm thường đến trước lí trí, thậm chí nhanh hơn lí trí, dẫn dắt lí trí; tuy nhiên, chính sự bí ẩn của trực cảm lại là yếu tố tạo nên nét quyến rũ của tình yêu, khi con người không thể lí giải nổi tình yêu của mình thì cũng là lúc họ đang sống thật nhất với những xúc cảm vô tư, chân thành của tình yêu. Cấu trúc đảo trong hai câu cuối của khổ thơ: đáp trước - hỏi sau khiến câu trả lời duyên dáng như một nụ cười vừa bối rối, vừa hạnh phúc: bối rối vì sự bất lực của lí trí, và hạnh phúc khi nhận ra một điều kì diệu: tình yêu lớn lao hơn mọi thứ lí trí trên đời; tình yêu hồn nhiên, giản dị mà mãnh liệt, như sóng như gió, như thiên nhiên muôn đời bí ẩn, như một lẽ tự nhiên huyền diệu của đất trời.

2. Ba khổ thơ 5, 6, 7 - Nhân vật trữ tình thông qua sóng để tự biểu hiện những nỗi niềm, cảm xúc.

2.1. Nỗi nhớ và những dự cảm mong manh, bất ổn trong tình yêu

Bốn câu đầu khổ 5 là hình ảnh của sóng trong cả không gian và thời gian:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được.

Trong thực tế, sóng là một hiện tượng thiên nhiên xuất hiện khi gió tạo nên những dao động trong nước, hiện tượng ấy mang tính chất vĩnh hằng bởi sóng luôn tồn tại hoặc trên bề mặt, hoặc dưới lòng sâu thăm thẳm của đại dương và luôn có xu thế hướng vào bờ. Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ dường như mới chỉ miêu tả sắc thái của sóng: những từ ngữ trùng điệp luân chuyển nối tiếp tạo ra nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, làm hiện lên hình ảnh những con sóng đang hăm hở trào dâng, và trong cảm nhận của Xuân Quỳnh, đó là những con sóng đang nhớ bờ cồn cào, mãnh liệt, đó là những con sóng vì nhớ bờ mà thao thức, ngày đêm ào ạt vỗ bờ như không cần biết đến thời gian. Nỗi nhớ ấy đầy ắp không gian dù dưới lòng sâu hay trên mặt nước, nỗi nhớ ấy tràn ngập thời gian dù là ngày hay đêm. Quan sát sóng bằng trái tim đang yêu, Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kì diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình, thi sĩ đã mượn sóng để thể hiện trước hết là nỗi nhớ - trạng thái cảm xúc luôn gắn liền với tình yêu. Thực ra, chỉ cần ý nghĩa nhân hoá trong hình ảnh con sóng nhớ bờ, khổ thơ đã có thể gợi ra nỗi nhớ cồn cào da diết của tình yêu. Nhưng hình như khi muốn bộc lộ nỗi nhớ của người phụ nữ đang yêu, trạng thái cảm xúc đặc biệt này không đựng vừa trong hình tượng sóng qua tầng nghĩa ẩn dụ, Xuân Quỳnh viết thêm hai câu cho một khổ thơ đã hoàn chỉnh khiến nỗi nhớ như trào dâng khỏi những khuôn khổ, mực thước thông thường:

Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức

* Hai câu thơ trước hết là nỗi nhớ trong ý nghĩa tương đồng với sóng: sóng vỗ bờ cả ngày và đêm, sóng nhớ bờ cả ngày và đêm, em cũng nhớ anh mọi nơi, mọi lúc, nếu sóng vì nhớ bờ mà ngày đêm không ngủ được thì em vì nhớ anh mà thức cả trong mơ; nếu nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm, chế ngự cả cái không cùng của thời gian và không gian thì nỗi nhớ của em với anh lại xâm chiếm toàn bộ thế giới vô biên của tâm hồn, nỗi nhớ cụ thể trong ý thức, nỗi nhớ mơ hồ trong tiềm thức, nỗi nhớ hiện hữu trong từng ý nghĩ và nhịp thở... Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát hướng vào bờ, em khao khát được có anh; tình yêu hiện lên đằm thắm, giản dị và trong sáng, thuỷ chung; khát vọng tình yêu cũng được bộc lộ táo bạo, chân thành. * Tuy nhiên, trạng thái trong mơ còn thức không chỉ là nỗi nhớ, đó dường như còn là những dự cảm lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc nhưng lại có quá nhiều những trải nghiệm đắng cay, một trái tim từng bầm dập đau đớn vì những tổn thương, mất mát trong tình yêu nên luôn lo sợ Lời yêu mỏng manh như làn khói - Ai biết lòng anh có đổi thay, một trái tim luôn xót xa: Em đâu dám mong là vĩnh viễn - Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi. Và do vậy, khi người phụ nữ đang yêu mà trong mơ còn thức thì thức không chỉ để nhớ tới anh, thức còn như để trông giữ tình yêu, để tình yêu không tuột khỏi tầm tay. Trăn trở, âu lo bất ổn luôn là nét tâm lí ám ảnh quen thuộc trong hồn thơ Xuân Quỳnh, cũng là nét riêng tạo nên cái mong manh xa xót cho tình yêu. Như vậy, trong khổ 5, nhà thơ đã thông qua sóng để thể hiện cả nỗi nhớ và những dự cảm lo âu của một trái tim luôn đầy ắp tình yêu cùng những trải nghiệm bất hạnh.

2.2. Khổ 6: Sự thuỷ chung son sắt trong tình yêu

Qua việc thể hiện nỗi nhớ ở khổ 5, nhà thơ cho thấy tình yêu đích thực không phụ thuộc vào thời gian ngày - đêm - thức - ngủ và trong khổ 6, sự khẳng định lại tiếp tục hướng tới những phạm trù của không gian:

Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nếu phương Bắc, phương Nam gợi những không gian xa xôi, cách trở, những không gian thường được lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, trong cuộc đời (Vừa thoáng tiếng còi tàu - lòng đã Nam đã Bắc... - Xuân Quỳnh) thì các động từ ngược hướng như xuôi, ngược lại thể hiện những vất vả, gian khó, truân chuyên... Có một sự khác biệt trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh so với qui ước cũng như tâm thế thông thường: không phải ngược Bắc, xuôi Nam mà là xuôi Bắc, ngược Nam... sự khác biệt ấy hình như đã hé mở những éo le, trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung, trong tình yêu của nữ sĩ nói riêng. Nếu cấu trúc điệp cú pháp của hai câu thơ làm đậm thêm những éo le, những xa xôi, cách trở thì từ dẫu điệp lại ở đầu hai câu thơ lại khẳng định bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ - bản lĩnh của những cô gái tự ngàn xưa Yêu nhau mấy núi cũng trèo - mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Và riêng với Xuân Quỳnh, khó khăn trong tình yêu hình như không chỉ là những gian truân, vất vả mà còn là những trắc trở éo le. Ý thơ của Xuân Quỳnh có lẽ còn chứa đựng một hàm ý: không dễ dàng để tới được bến bờ của hạnh phúc, nhưng khi con người có thể vượt qua những thử thách, khó khăn thì tình yêu lại càng bền vững, bến bờ hạnh phúc của tình yêu sẽ càng thêm quí giá. Xuân Quỳnh đã cho thấy một quan niệm thật đẹp khi khẳng định tình yêu đích thực không phụ thuộc vào những không gian Nam, Bắc, những phương hướng ngược, xuôi, trái tim chỉ biết yêu thương mà không bận tâm đến những lôgic khách quan của cuộc đời. Hai câu sau đã làm hiện ra trọn vẹn bản lĩnh của người phụ nữ trong tình yêu, đó là sự thủy chung son sắt bất chấp mọi thử thách, mọi khó khăn trắc trở:

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương

Từ cuối cùng của khổ thơ lại là từ phương, một từ chỉ hướng trong không gian. Tình yêu của người phụ nữ đã đem đến một sáng tạo mới mẻ, độc đáo cho ngôn từ: với tình yêu, không có phương Nam hay phương Bắc, mọi không gian khách quan đều vô nghĩa trước không gian kì diệu của tình yêu, người phụ nữ son sắt thuỷ chung chỉ duy nhất hướng về phương anh, phương có người yêu dấu - giữa cuộc đời rộng lớn, giữa vũ trụ bao la, anh là bến bờ hạnh phúc duy nhất để lòng em hướng tìm. Nỗi nhớ và sự thuỷ chung trong tình yêu khiến vũ trụ không còn Nam Bắc Đông Tây mà như được chia đôi: phương trời có anh đẹp đẽ, ấm áp, tươi sáng; mọi phương không có anh đều trở nên lạnh lẽo, u buồn:

Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại

Ngọn gió buồn vẫn thổi phía không anh.

Nếu ở khổ thơ 5, nhà thơ bộc lộ nỗi nhớ nồng nàn, sâu đậm trong tình yêu thì ở khổ 6, sắc thái cảm xúc cơ bản vẫn là nỗi nhớ khi người phụ nữ một lòng thuỷ chung, tha thiết hướng về anh, nhưng thay cho từ nhớ đã là nghĩ - trong nghĩ có cả yêu thương, cả mong nhớ, cả trăn trở, lo âu, cả giận hờn, buồn bã..., không chỉ là nỗi nhớ bất chợt, anh đã trở thành ý nghĩ luôn canh cánh, thường trực trong lòng em; nếu nhớ là xúc cảm tự nhiên, cảm tính thì nghĩ là tình cảm lâu bền, lắng đọng những suy tư sâu sắc, chín chắn... Những khát vọng tình yêu sôi nổi, cháy bỏng được bày tỏ vừa mạnh mẽ, táo bạo, vừa chân thành, nữ tính, qua đó làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ vừa hiện đại, vừa truyền thống.

2.3. Khổ 7: Niềm tin vào tình yêu

- Có thể thấy khổ 7 trước hết hầu như chỉ điệp lại ý nghĩa của khổ 6 và là đích đến của khổ 5. Nếu khổ 6 thể hiện sự thuỷ chung son sắt của người phụ nữ trong tình yêu thì tới khổ 7, thông qua hình tượng sóng, nhà thơ đã mượn chính qui luật khách quan của trời đất để kiểm chứng và khẳng định niềm tin vào sự thuỷ chung của mình, niềm tin vào bến bờ hạnh phúc và đích đến cuối cùng tốt đẹp của tình yêu khi con sóng nhớ bờ của khổ 5 đã trở thành con sóng tới bờ trong khổ 7. - Giữa những ngược xuôi Nam Bắc của cuộc đời, người phụ nữ chỉ hướng về phương duy nhất, nơi có anh. Cũng như thế, giữa muôn vi cách trở của đại dương xa xôi, mọi con sóng đều chỉ tha thiết hướng tới bờ:

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở.

Có thể nhận ra một cấu trúc đảo tinh tế cho hai câu cuối của khổ thơ. Nếu viết theo trật tự cú pháp thông thường của một câu ghép chính phụ dù A nhưng B, hai câu thơ sẽ là dù muôn vi cách trở - con nào chẳng tới bờ, và như thế, ý thơ sẽ thuận hơn, sự khẳng định sẽ chắc chắn, đầy lí trí với một kết cục có hậu và bình ổn. Nhưng Xuân Quỳnh lại chọn một kết cấu đảo khiến niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh một chút bất ổn đầy cảm tính; thêm nữa, sắc thái nghi vấn - phủ định đậm chất tranh biện trong câu thơ thứ 3: Con nào chẳng tới bờ làm hiện ra cái tôi một mực tin tưởng vào tình yêu như đang thuyết phục cái tôi trải nghiệm, đau khổ thấp thoáng những hoài nghi về tình yêu; ý thơ do đó đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt, chân thành mà không hề dễ dãi, ngây thơ. Một người phụ nữ đã từng mất mát, từng đổ vỡ trong tình yêu nên luôn hiểu rằng con đường đến với hạnh phúc thường không ít những cay đắng, gian nan, một trái tim đã bao lần bầm dập đau đớn nên niềm tin vào đích đến cuối cùng của tình yêu như có thêm vị đắng của sự nếm trải - câu kết Dù muôn vi cách trở như một lời nói thêm để tự dặn lòng, tự nhắc mình đừng bao giờ mất niềm tin, nhưng cũng đừng ngây thơ, ảo tưởng vào sự dễ dàng trong tình yêu. Và cũng chính vì sự nếm trải ấy mà niềm tin của người phụ nữ vào tình yêu càng đáng quí, đáng trân trọng.

3. Hai khổ thơ cuối - Tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử.

- Không dừng lại trong niềm tin vào tình yêu như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm giàu suy tư của Xuân Quỳnh tiếp tục mở ra những trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những hình ảnh của thời gian và không gian:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

- Thời gian và không gian được đặt trong hai bình diện đối lập: cuộc đờinăm tháng; biển cả mây trời. Cuộc đời chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp người, năm tháng là hoán dụ cho dòng thời gian vô thuỷ vô chung; bin cả là một không gian mênh mông nhưng vẫn chỉ là hữu hạn, còn mây trời lại gợi sự phiêu du trong vũ trụ vô cùng vô tận. Cuộc đời tuy dài, biển cả tuy rộng nhưng năm tháng sẽ đi hết cuộc đời như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ đến với những không gian bao la trong vũ trụ không cùng. Khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và cái hữu hạn của cuộc đời, nhất là của tình yêu, cảm giác hữu hạn này thường xuất hiện ở những con người từng trải, nhất là từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương, và vì thế, luôn khao khát sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng, vô hạn. Cũng có thể nhận ra thoáng buồn bã, tiếc nuối của nhà thơ khi tình yêu và khát vọng tình yêu của loài người tồn tại vĩnh hằng như biển cả, còn cuộc đời mỗi con người lại ngắn ngủi, mong manh như một áng mây phù du... - Cảm giác về sự hữu hạn thường khiến con người buồn bã, bất lực. Xuân Diệu từng sợ chính cái hữu hạn của lòng mình: Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai - Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn. Xuân Diệu cũng đã từng giục giã: Nhanh lên chứ, vội vàng lên mấy chứ - em, em ơi, tình non sắp già rồi. Và khi không thể tắt nắng hay buộc gió để níu kéo năm tháng, để gìn giữ hương sắc cuộc đời, để nới dài hơn quỹ thời gian cho tình yêu và hạnh phúc, Xuân Diệu tìm đến một giải pháp mãnh liệt đầy nam tính, đó là vội vàng tận hưởng cuộc đời một cách say sưa, ham hố khi còn có thể, từ ôm cả sự sống đến say đắm riết, thâu, hôn, cắn... từ mây đưa gió lượn đến non nước, cỏ cây... - Những trải nghiệm cay đắng khiến Xuân Quỳnh sớm nhận ra và thẩm thía sự hữu hạn của cuộc đời, của lòng người, nhưng khác với người đàn ông trong Xuân Diệu luôn khát khao chiếm lĩnh và tận hưởng, trái tim người phụ nữ trong Xuân Quỳnh lại có một mong ước đầy nữ tính:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Câu thơ Làm sao được tan ra mang cấu trúc nghi vấn - cầu khiến cho thấy cả nỗi trăn trở và niềm mong ước của người phụ nữ thật da diết và thành thực. Tan ra là hi sinh, là dâng hiến, là mong được hoá thân thành trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu, mong ước được hi sinh và dâng hiến cũng là mong được sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu. Khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành, táo bạo và cũng thật nhân hậu, vị tha. Hai câu cuối mở ra cảm giác mênh mang của không gian biển lớn cùng sự vĩnh hằng của thời gian ngàn năm. Khi sống hết mình, yêu hết mình, để tình yêu lớn lao tới mức tan hoà trong cái vô biên của trời đất thì lúc ấy tình yêu cũng đồng thời được nhập vào dòng thời gian vĩnh hằng, tình yêu sẽ trường tồn cùng năm tháng, cùng đất trời, vũ trụ. Vậy là, con người sẽ làm được điều kì diệu, sẽ chiến thắng được cái hữu hạn của cả thời gian và không gian, sẽ vĩnh viễn hoá tình yêu ngay trong cái ngắn ngủi, thoáng chốc của cuộc đời nếu họ dâng hiến và hi sinh trọn vẹn cho tình yêu.

III. KẾT LUẬN

Thông qua những ẩn dụ, hoán dụ, những phép điệp tạo sự xao xuyến cho âm hưởng thơ, đoạn thơ đã thể hiện chân thực những sắc thái phong phú, phức tạp mà quyến rũ của tình yêu, diễn tả sâu sắc trái tim người đang bồi hồi rạo rực và trăn trở, những trạng thái tâm lí với những nét riêng đầy nữ tính của Xuân Quỳnh trong tình yêu. Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường không ngắt nhịp, sự đắp đổi các thanh bằng trắc ở cuối mỗi câu thơ, khổ thơ, những từ ngữ trùng điệp, những cặp từ sóng đôi hô ứng xô đuổi nhau đã tạo nên âm hưởng dào dạt nhịp nhàng, gợi nhịp điệu những con sóng miên man, bất tận, vô hạn vô hồi, khi ào ạt trào dâng, lúc dịu êm, đầm lắng. Đó cũng đồng thời là nhịp điệu những con sóng lòng, những đợt sóng của đam mê khao khát và da diết yêu thương đang cuộn trào trong trái tim người phụ nữ - những con sóng làm nên sức mạnh và vẻ đẹp đắm say cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Sóng đã trở quanh một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Thông qua hình tượng sóng, bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu: vừa hiện đại vì sự bộc lộ thành thực, táo bạo, mạnh mẽ những khao khát, đam mê, vừa giữ được những nét truyền thống tốt đẹp trong sự dịu dàng, đằm thắm, đức hi sinh và sự gắn bó thuỷ chung./.

TRỌNG TÂM CHINH PHỤC ĐIỂM 10 THPT QUỐC GIA 2022

MÔN: NGỮ VĂN

CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 2000

BÀI 1: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh BÀI 2: Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh) BÀI 3: Tây Tiến (Quang Dũng) BÀI 4: Tố Hữu BÀI 5: Việt Bắc (Tố Hữu) BÀI 6: Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) BÀI 7: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) BÀI 8: Sóng (Xuân Quỳnh) BÀI 9: Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) BÀI 10: Nguyễn Tuân BÀI 11: Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) BÀI 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) BÀI 13: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) BÀI 14: Vợ nhặt (Kim Lân) BÀI 15: Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) BÀI 16: Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) BÀI 17: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) BÀI 18: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) BÀI 19: Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)

Các bài viết liên quan

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Tiếng anh và gợi ý giải...

286 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Giáo dục công dân và gợi...

400 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Địa lí và gợi ý giải...

391 View

Các bài viết được xem nhiều nhất

Theo dõi Captoc trên

Khoa học xã hội

Facebook Group

270.000 members

Khoa học tự nhiên

Facebook Group

96.000 members