Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành

RỪNG XÀ NU

Nguyễn Trung Thành

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

1. Tác giả:

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có sự gắn bó mật thiết với Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Những hiểu biết và tình yêu sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên, với thiên nhiên và con người Tây Nguyên đã giúp Nguyễn Trung Thành trở thành cây bút văn xuôi tiêu biểu với những tác phẩm viết hay nhất về miền rừng núi xa xôi này. Những sáng tác của Nguyễn Trung Thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ thường thể hiện khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét. Với nguồn cảm hứng chủ đạo là tình yêu quê hương đất nước, nhà văn luôn muốn đem đến cho tác phẩm của mình những giá trị khái quát lớn lao về lịch sử, nhân dân, đất nước, cách mạng...

2. Tác phẩm:

Truyện ngắn Rừng xà nu được sáng tác đầu năm 1965, ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung Bộ, trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - đó là thời điểm đế quốc Mĩ thực hiện chiến tranh cục bộ, ồ ạt đổ quân vào miền Nam và đánh phá ác liệt miền Bắc. Truyện ngắn Rừng xà nu tái hiện không khí đen tối, nghẹt thở trong một thời kì lịch sử của cách mạng miền Nam (1955 - 1959). Từ cuộc chiến tranh một phía tàn bạo của kẻ thù, mâu thuẫn giữa Mĩ nguỵ với các tầng lớp nhân dân bị dồn nén tới cao độ khiến sự bùng nổ của phong trào đồng khởi là một kết cục tất yếu. Từ câu chuyện về một cuộc nổi dậy của một buôn làng Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã phản ánh khí thế hào hùng trong phong trào đồng khởi khắp miền Nam đầu những năm 60, cũng đồng thời khái quát những chân lí lịch sử, lý giải sâu sắc và thuyết phục con đường giải phóng của nhân dân, đất nước.

II. HÌNH TƯỢNG XÀ NU. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

1. Rừng xà nu trước hết là bức tranh thiên nhiên đẹp thơ mộng, hùng vĩ bao bọc xung quanh làng Xô Man.

- Nguyễn Trung Thành đã nói về cây xà nu bằng những lời đắm say ngưỡng mộ: "Tôi yêu say mê cây xà nu, ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứ nhựa. Tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi, mênh mông tưởng như đã sống từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau." Với kết cấu vòng tròn của tác phẩm khi mở đầu và kết thúc truyện ngắn đều là hình ảnh những đồi xà nu, rừng xà nu nối tiếp tới chân trời, tác giả đã gợi hình ảnh một thiên nhiên bao la, phóng khoáng, gợi cảm giác về những sức mạnh thiên nhiên lớn lao và hoang dại, nguyên sơ và thuần khiết, cũng đem đến cảm giác về sự trường tồn vô hạn của sự sống. Hình ảnh cây xà nu được vẽ, được chạm khắc bằng những nét tạo hình đầy ấn tượng từ ngọn xà nu hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời cho đến cả cánh rừng như một cơ thể cường tráng ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng. Với những ngôn từ đặc sắc giàu chất tạo hình và biểu cảm, người đọc cảm nhận thấy Rừng xà nu được nhà văn say đắm phả vào hương thơm ngào ngạt... thơm mỡ màng; xà nu được soi chiếu trong long lanh nng hè gay gắt, được dát lên lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, đó là những hương thơm nồng nàn, những sắc màu lộng lẫy và tràn trề sức sống... Vừa được chạm khắc trong những hình khối mênh mông, vừa được đặc tả trong những chi tiết tinh tế, được cảm nhận đồng thời bằng cả thị giác, khứu giác, xúc giác, xà nu hiện lên từ mảng khối, đường nét cho đến hình sắc, hương thơm, ánh sáng và hơi nóng nồng nàn. Những câu văn miêu tả vừa đẹp đẽ vừa mê đắm, thể hiện tình yêu, niềm tự hào ngây ngất của nhà văn khi được khám phá và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. → Những đồi xà nu, rừng xà nu, cây xà nu thực sự là một thiên nhiên thơ mộng và hùng vĩ làm nền cho hình ảnh con người xuất hiện, đem đến chất thơ và sắc thái lãng mạn đặc biệt cho truyện ngắn.

2. Hình ảnh những cánh rừng xà nu chịu một số phận đau thương bởi sự tàn phá khốc liệt của bom đạn kẻ thù.

- Truyện ngắn bắt đầu bằng những câu văn gợi ra không khí dữ dội, cũng là tình huống khắc nghiệt của chiến tranh: "Làng ở trong tầm đại bác... ngày nào cũng bị bắn hai lần... hầu hết đạn đại bác đều rơi vào những ngọn đồi xà nu". Như vậy là cả làng và xà nu đều là đối tượng huỷ diệt trực tiếp và tàn bạo của bom đạn kẻ thù; sự sống đẹp đẽ, an lành, bình dị, sự sinh tồn vĩ đại của cả thiên nhiên và con người đang trong tư thế đối mặt với sự huỷ diệt tàn bạo, phi lí, phi nhân tính, với những cái chết phi tự nhiên. Sự tàn phá mang tính huỷ diệt của bom đạn kẻ thù đã khiến cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương. Cấu trúc câu phủ định tạo ra ấn tượng về tính chất tuyệt đối, làm tăng thêm sự thảm khốc, đau thương, cách diễn đạt mang sắc thái nhân hoá về cả một khu rừng bị thương khiến câu văn trần thuật không còn giữ sắc thái nhân hóa về cả một rừng cây vô tri mà thấm thía nỗi đau đớn cho từng sinh thể sống. - Nỗi đau của xà nu đã được miêu tả trong nhiều mức độ và sắc thái: khi là sự xót xa cho những cây non, tựa những sinh linh thơ trẻ chưa đủ sức mạnh chống đỡ, những vết thương nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết; khi lại là cái đau dữ dội của những cây xà nu trưởng thành, như những con người đang tuổi thanh xuân, những cây xà nu bị đạn giặc chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão; và cũng có cả những vết thương... chóng lành trên những thân cây xà nu cường tráng. Không chỉ được miêu tả ở bề rộng với những đau thương lớn lao của toàn cảnh khu rừng xà nu, nhà văn còn đưa ống kính vào cận cảnh của những vết thương nhức nhối trên mình cây: nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn. Cây xà nu được miêu tả trong cả vẻ đẹp và nỗi đau, hiện ra như những sinh thể sống vừa đẹp đẽ quí giá, vừa bất hạnh, đau thương, cũng vì thế mà càng làm tăng thêm cảm giác đau đớn, xót thương và căm hận. - Hình tượng xà nu không chỉ đem đến nỗi xót xa cho một thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ bị tàn phá trong chiến tranh mà thông qua sắc thái nhân hoá, nhà văn còn gợi liên tưởng tới những đau thương của dân làng Xô Man, những đau thương một thời dân tộc ta phải chịu đựng. Cũng như Rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương, trong làng Xô Man, hầu như không nhà nào không có người thân bị kẻ thù đàn áp dã man; nếu những cây xà nu đổ ào ào như một trận bão bởi đại bác của kẻ thù thì trong làng Xô Man, khi giặc tới khủng bố, đàn áp, bắt bớ, tiếng kêu khóc dậy cả làng. Cũng như cả cánh xà nu từ cây non đến cây trưởng thành đều bị bom đạn tàn phá, nỗi đau thương của dân làng Xô Man không trừ một ai, từ người già, thanh niên, phụ nữ cho tới những đứa trẻ đều là nạn nhân đau đớn của chiến tranh khi dân làng người chết, người bị chặt đầu, treo cổ, người bị tù đày tra tấn... Và những vết thương trên mình cây xà nu cũng gợi liên tưởng nhức nhối đến những vết thương bầm đen trên lưng, trên tay Tnú. → Qua hình ảnh đau thương của những cánh rừng xà nu bị tàn phá, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa sâu đậm nỗi xót xa cho thiên nhiên và cuộc sống con người trên mọi miền Tổ quốc, nỗi căm giận với kẻ thù tàn bạo khi sự sống tươi đẹp và an lành bị huỷ diệt đau đớn trong khói lửa chiến tranh.

3. Sức sống kiên cường của những cánh rừng xà nu hiên ngang mạnh mẽ tồn tại ngay dưới tầm đại bác.

- Sức sống mạnh mẽ kiên cường của xà nu được miêu tả trước hết trong ý nghĩa cụ thể về một loài cây khao khát sống, háo hức vươn lên tiếp nhận ánh sáng của bầu trời cao rộng, mênh mông với một sức mạnh không gì ngăn cản nổi: "Trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng". Những đặc điểm này của xà nu đã gợi ra cho người đọc những liên hưởng về tâm hồn và cách sống phóng khoáng của những người dân Tây Nguyên yêu tự do, những tính cách ngang tàng, mạnh mẽ, không cam chịu sống cảnh chật hẹp tù túng, không chấp nhận cuộc sống nhẫn nhục, tối tăm. Từ thực tế về sức sống, sức sinh trưởng và phát triển kì diệu của cây xà nu khi cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn... đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng..., nhà văn đã hướng người đọc tới những tầng nghĩa tượng trưng sâu sắc khi đặt xà nu trong lời khẳng định đầy tự hào của già làng: "... không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên". Trong đoạn kết, tác giả lại miêu tả hình ảnh vô số cây con đang mọc lên quanh những cây xà nu mới bị đại bác đánh ngã, một hình ảnh có giá trị gợi ra những suy tư sâu sắc về sức sống bất diệt, phi thường của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. - Sức sống kì diệu của xà nu gợi sự nối tiếp kiên cường của các thế hệ người Xô Man đi làm cách mạng. Bao nhiêu năm dân làng Xô Man nuôi giấu cán bộ, lúc đầu thanh niên đi, giặc bắt và treo cổ anh Xút, sau người già thay thanh niên, giặc lại bắt và giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng; đến lũ trẻ như Tnú, Mai thay thế người lớn tiếp tục đi nuôi giấu cán bộ với một niềm tin sâu sắc như lời dạy của già làng: "Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn". Tới khi anh Quyết hi sinh, Tnú lại thay anh lãnh đạo dân làm cách mạng. Sau này, Mai bị giặc giết, Tnú đi bộ đội giải phóng, Dít lại tiếp bước anh chị, trở thành một bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội, Tnú cũng nhận thấy sự trưởng thành của cô: "... rồi Dít sẽ lớn lên. Con bé ấy vững hơn cả chị nó". Tiếp bước Mai, Tnú, Dít sau này sẽ là thế hệ của bé Heng - ngày Tnú ở nhà nó mới đứng ngang bụng anh, ba năm sau, khi Tnú về thăm làng, nó đã đeo được khẩu súng trường, lầm lì nhanh nhẹn như một chàng trai Tây Nguyên đích thực. - Hình ảnh những cây con mới nhú... hình nhọn mũi tên... nhọn hoắt như những mũi lê đã gợi những suy ngẫm sâu xa không chỉ về sức sống mà còn là sức chiến đấu, là sức mạnh chống trả bất khuất của xà nu, của con người Tây Nguyên trước những thế lực độc ác, bạo tàn. Trước sự huỷ diệt của bom đạn kẻ thù, sự khủng bố tàn bạo của Mĩ - nguỵ, cả xà nu và dân làng Xô Man đều không chỉ duy trì cho mình sự sống, sự tồn tại mà còn kiên cường mài sắc ý chí, kiên cường chiến đấu trừng phạt kẻ thù. Trong đêm nổi dậy của làng, xà nu cũng tức giận trước tội ác của kẻ thù, xà nu cũng hoà vào khí thế quật khởi của dân làng, suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng... Hình ảnh những đồi xà nu, rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời còn gợi ra những cảm nhận sâu sắc: cuộc vùng dậy của dân làng Xô Man, của người dân Tây Nguyên không hề đơn độc, cũng không phải là những hành động tự phát đơn độc, cuộc vùng dậy ấy còn lan rộng và hoà chung với phong trào đồng khởi của nhân dân miền Nam đầu những năm 60, hoà chung với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Việt Nam. → Miêu tả sức sống kì diệu của xà nu trước sự tàn phá khốc liệt của bom đạn kẻ thù, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã cho thấy tác phẩm của ông thực chất là một khúc tráng ca tha thiết, hào hùng hướng về sự sống, ngợi ca sự sống đẹp nồng nàn, bất khuất. Ấn tượng về một màu xanh bất diệt của xà nu từ đầu tới cuối tác phẩm đã gieo vào lòng người niềm say mê và ngưỡng mộ, sự kính phục và tin yêu vào sức sống trường tồn, mãnh liệt của thiên nhiên và con người trên mọi miền Tổ quốc thân yêu.

4. Trong toàn bộ truyện ngắn, xà nu luôn là một hình tượng thiên nhiên gắn bó mật thiết với con người.

4.1. Ở tầng nghĩa cụ thể, cây xà nu từ đuốc, dầu, nhựa, khói, lửa cho tới cả rừng cây mênh mông đều luôn hiện diện trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và trong khói lửa chiến tranh, trong cả cuộc nổi dậy oanh liệt của dân làng Xô Man. Ngọn lửa xà nu luôn rực đỏ, ấm nóng trong bếp người Xô Man, là ngọn lửa duy trì sự sống cho dân làng, ngọn lửa làm mặt mày lũ trẻ lem luốc khói xà nu. Cũng ngọn lửa ấy đã cháy gin giật trong ngôi nhà ưng của già làng, nơi dân làng lặng yên, kính cẩn quây quần bên ngọn lửa xà nu, lắng nghe cụ Mết kể về cuộc đời Thú, về lịch sử của làng Xô Man. Trong bối cảnh khốc liệt của chiến tranh, xà nu gắn bó với con người trong đau thương khi cả làng Xô Man và những cánh rừng xà nu đều là đối tượng huỷ diệt tàn bạo của đạn đại bác, và nhất là khi Rừng xà nu uỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng, xà nu cũng sát cánh cùng con người đánh giặc. Ngọn lửa xà nu trong bao đêm đã soi sáng cho dân làng Xô Man âm thầm mài giáo mác. Trong đêm vợ con Tnú bị giết, Tnú bị tra tấn, dân làng đã đốt đuốc xà nu vào rừng tìm giáo mác, để rồi trở về làng, ào ào xông vào kẻ thù, tiêu diệt toàn bộ tiểu đội ác ôn của thằng Dục. Họ đã đốt đống lửa xà nu ở giữa sân nhà ưng, lửa xà nu soi rõ xác mười tên giặc ngổn ngang trên mặt đất. Trong đêm ấy, cụ Mết đã nhắc tới hai lần lời hiệu triệu: "... đốt lửa lên"! - ngọn lửa xà nu cháy sáng khắp rừng, cả rừng Xô Man ào ào vang động, xà nu đã thực sự bước vào cuộc nổi dậy, cuộc chiến đấu oanh liệt hào hùng với con người. 4.2. Trong tầng nghĩa tượng trưng, cây xà nu luôn được miêu tả trong thế song hành rất độc đáo với con người, luôn tiềm ẩn trong nó những liên tưởng, những cảm nhận về cuộc đời, số phận, tâm hồn, tính cách và sức sống bất diệt của dân làng Xô Man. Khi miêu tả rừng xà nu hay những thân cây xà nu, Nguyễn Trung Thành thường sử dụng những ngôn ngữ dành nói về một sinh thể sống, về con người: xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình... vết thương bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.... vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng... Cách miêu tả ấy đã đem đến cho xà nu cả linh hồn và tâm trạng, cả sự mạnh mẽ và cường tráng, cả nỗi đau đớn và sự che chở cao thượng, bao dung, đó cũng là nỗi đau, là những phẩm chất cơ bản của người dân Tây Nguyên trong chiến tranh. Khi miêu tả con người, nhà văn lại đưa người đọc đến những liên tưởng đầy ấn tượng về xà nu: từ cụ Mết ngực căng như một cây xà nu lớn tới Tnú với tấm lưng bị giặc chém, ứa một giọt máu đậm từ sáng tới chiều thì tím thâm lại như nhựa xà nu. Xà nu và người dân Xô Man đã thực sự hòa nhập với nhau trong cả sự mạnh mẽ cường tráng và những bất hạnh, đau thương. 4.3. Xà nu còn là một hình tượng nghệ thuật đặc biệt khi luôn gắn bó và hiện diện trong mọi biến cố của cuộc đời Tnú. Từ nhỏ, khi muốn học cái chữ của Đảng để lớn lên làm cán bộ giỏi, Tnú đã cùng anh Quyết, cùng Mai đốt khói xà nu xông bảng nứa đen kịt để lấy bảng viết chữ, xà nu đã có mặt với Tnú ngay trong chặng đường đầu tiên đi làm cách mạng. Khi vượt ngục trở về làng, Tnú đã gặp Mai bên cánh rừng xà nu đầu làng, xà nu đã chứng kiến, đã chia sẻ một kỉ niệm yêu thương trong cuộc đời anh. Trong cái đêm kinh hoàng khi vợ con bị giặc tra tấn dã man, chỉ một mình với hai bàn tay không lao vào kẻ thù, Tnú bị giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay để đốt khiến cho mười ngón tay thành mười ngọn đuốc - ngọn đuốc xà nu làm bùng cháy nỗi căm hờn với tội ác man rợ của kẻ thù, ngọn đuốc xà nu ghi khắc sự đau đớn cùng cực của Tnú cả về tinh thần và thể xác, ngọn đuốc xà nu cũng đồng thời soi sáng một chân lí thời đại: không thể chiến thắng giặc với hai bàn tay không, chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! Sau tất cả những đau thương, Tnú từ biệt dân làng lên đường đi bộ đội giải phóng, trong đêm, anh cầm mấy cây đuốc xà nu soi cho Dít gằn gạo mang ăn đường. Tới khi anh về phép, rồi trở lại đơn vị, hình ảnh đầu tiên của quê hương khi gặp mặt, hình ảnh cuối cùng của làng quê khi chia tay vẫn là những cánh rừng xà nu, cụ Mết lại cùng Dít tiễn Tnú đến ca rừng xà nu gần con nước lớn - xà nu thực sự là hình ảnh thân yêu vô cùng của quê hương trong lòng Tnú. Xà nu chia sẻ, chứng kiến những đau thương, những giác ngộ, trưởng thành của Thú, xà nu cũng là chứng nhân lịch sử trong cuộc chiến đấu oanh liệt, hào hùng. → Được miêu tả bằng một thế giới ngôn từ đặc biệt gợi hình và biểu cảm, xà nu trước hết là bức tranh thiên nhiên thơ mộng và hùng vĩ, đem đến chất thơ trữ tình lãng mạn cho tác phẩm. Ngoài ra, nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá, phép liên tưởng ứng chiếu song hành còn khiến xà nu trở thành biểu tượng cho số phận đau thương, những phẩm chất đẹp đẽ, cao thượng và cuộc chiến đấu hào hùng, oanh liệt của người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Vừa là đối tượng miêu tả, vừa là phương tiện biểu hiện, hình tượng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành đã đưa đến cho người đọc đồng thời cả cảm xúc say mê ngưỡng mộ và những suy ngẫm sâu xa về thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam những năm chống Mĩ.

III. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT CỤ MẾT. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

1. Ngay khi vừa xuất hiện, ấn tượng về một vị già làng mạnh mẽ đã thể hiện trong hình ảnh một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt. Những nét vẽ ngoại hình về một cụ già quắc thước... mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng... ngực căng như một cây xà nu lớn... đã phác họa hình ảnh của một già làng sắc sảo, kiên nghị, vững chãi, tiềm tàng sức mạnh thể chất, tràn đầy uy lực tinh thần, có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ với cộng đồng. 2. Hầu như nét miêu tả nào ở cụ Mết cũng có tính cá biệt: cách nói như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát thể hiện sự quyết đoán của những người đứng đầu; việc cụ không bao giờ khen, khi vừa ý nhất cũng chỉ nói: Được! là tính cách của một người luôn yêu cầu cao ở người khác cũng như chính mình, là thái độ coi trọng mọi người và tự trọng với bản thân; đặc biệt ấn tượng là giọng nói: đó thường là tiếng nói , dội vang trong lồng ngực, tiếng nói ấy hoặc vang vang khi hô hào dân làng Xô Man nổi dậy, hoặc trầm và nặng như tiếng vọng của núi rừng, như lời phán truyền của quá khứ khi kể chuyện về cuộc đời Tnú, về lịch sử oanh liệt của làng, tiếng nói ấy tha thiết trang nghiêm khi nhắc nhở dân làng và con cháu bài học lịch sử: Nghe rõ chưa các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy...! 3. Tâm hồn, tính cách. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành). 3.1. Cụ là người có tình yêu sâu sắc, sự gắn bó máu thịt với quê hương. Khi Tnú đi xa về, cụ dẫn anh ra máng nước đầu làng giội rửa, bằng việc làm ấy, cụ như muốn nhắc nhở người con xa quê dù có đi tới phương trời nào cũng phải ghi nhớ và trân trọng nguồn cội thiêng liêng của quê hương. Nói chuyện với Tnú, cu luôn tự hào khẳng định bằng cách nói tuyệt đối có phần hơi cực đoan, cách nói quen thuộc của tình yêu: không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta... gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này... Với cụ Mết, quê hương thật đẹp đẽ và lớn lao, thiêng liêng và thân thuộc từ dòng nước trong nguồn, hạt gạo trên nương cho tới những cánh rừng xà nu bạt ngàn mạnh mẽ và cường tráng. Cụ luôn tâm niệm và dặn con cháu: "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn" như vậy, lòng trung thành với Đảng và cách mạng của cụ chính là xuất phát từ tình yêu sâu sắc với rừng núi quê hương. 3.2. Bên trong con người có vẻ ngoài quắc thước, nghiêm nghị ấy là một trái tim trĩu nặng tình thương yêu với dân làng. Khi Tnú trở về thăm làng sau ba năm đi lực lượng, cụ Mết đã đón anh bằng tấm lòng thương yêu nồng hậu của người cha: quyết định anh ở nhà cụ trong đêm về làng, động viên khích lệ anh: Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được - cụ đã đem đến cho Tnú, người con bất hạnh của dân làng Xô Man một cảm giác ấm áp của gia đình khi trở về làng. - Ngồi ăn cơm với Tnú, nhìn hai bàn tay cụt đốt của anh, ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ, đó là biểu hiện rõ nhất của nỗi đau đớn xót thương cho Tnú cùng niềm căm giận kẻ thù tàn bạo không thể nguôi ngoai - bàn tay Tnú đã thành sẹo nhưng vết thương trong lòng già làng hình như vẫn chưa thôi nhức nhối. Khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú, dù câu chuyện đau lòng xảy ra đã tới ba năm, cụ vẫn không kìm nổi sự tiếc thương, đau đớn và xúc động, cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt như muốn che giấu sự yếu đuối của lòng mình. Nhưng cũng chính cử chỉ vụng về ấy lại bộc lộ trái tim nhân hậu và tình yêu thương sâu sắc, chân thành của cụ với dân làng. Nhận được gói muối quí giá từ những người đi xa về, cụ luôn chia đều cho mọi người trong làng, để dành cho những người đau ốm, vị mặn của những hạt muối nhỏ bé cũng là vị mặn đậm đà của tình yêu thương trong trái tim già làng 3.3. Trong vai trò của một già làng thời đánh Mĩ, cụ Mết kiên cường, vững chãi như một cây xà nu lớn, là chỗ dựa tin cậy của dân làng, có sức lôi cuốn mạnh mẽ với dân làng. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành). Cụ Mết luôn giữ cho mình tình yêu, niềm tin và lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng, câu nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn cho thấy tình cảm của cụ với cách mạng thật chân thành, thiêng liêng, thấm thía khi nó có cội nguồn từ tình yêu núi nước quê hương. Cụ cũng là người đứng đầu biết nhìn xa trông rộng, biết lo cho cuộc chiến đấu chung của dân làng. Cụ động viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi: đánh Mĩ phải đánh dài... Cụ cũng đã thể hiện vai trò của một già làng, tỉnh táo, sáng suốt kiềm chế được nỗi đau đớn và căm hờn ngay trong giờ phút khốc liệt nhất, tìm ra con đường đúng đắn nhất, lãnh đạo dân làng nổi dậy, cầm vũ khí tiêu diệt kẻ thù. Trước cái chết của vợ con Tnú, trước cảnh Tnú bị bắt trói, bị tra tấn dã man, cụ Mết đau đớn song tỉnh táo không để tình cảm chi phối dẫn đến những hành động bột phát, cụ nhắc đi nhắc lại: "Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng... tìm bạn thanh niên... tìm giáo mác". Chính lí trí sáng suốt cần thiết của một già làng, của một người đứng đầu, người chịu trách nhiệm với sự sống còn của cả cộng đồng đã giúp cụ Mết lãnh đạo dân làng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù tàn bạo. Với trí tuệ sắc sảo của người đứng đầu, cụ Mết không chỉ nhắc tới sự kiện đau thương và cuộc chiến đấu oanh liệt của dân làng trong đêm ấy như một kỉ niệm, cụ đã khái quát, đúc kết và khắc sâu qui luật tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!". Chân lí ấy đã được rút ra từ chính những trang sử đầy máu và nước mắt của làng Xô Man, thông qua lời nhắc tha thiết của già làng: "... ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ lấy. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe" sẽ trở thành lời phán truyền thiêng liêng của lịch sử cho các thế hệ mai sau. → Cụ Mết là một hình tượng nhân vật đẹp gợi nhớ hình ảnh những già làng, tộc trưởng trong sử thi, thần thoại, truyền thuyết, trong những bản trường ca Tây Nguyên xưa. Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong nền cảm hứng chung của văn học 1945 - 1975 khiến nhân vật không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là một nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Thông qua nhân vật cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong thời đánh Mĩ, cũng đồng thời khái quát chân lí lịch sử lớn lao của thời đại, lí giải sâu sắc và thuyết phục con đường giải phóng của nhân dân, đất nước.

IV. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TNÚ. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

1. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

Nếu cụ Mết hiện lên trong bức chân dung đầy đặn và ấn tượng về ngoại hình thì ở Tnú, Nguyễn Trung Thành chỉ tập trung khắc họa hình ảnh đôi bàn tay. Đôi bàn tay Tnú luôn xuất hiện trong những diễn biến quan trọng của cuộc đời anh. Khi còn lành lặn, đó đã là bàn tay dũng cảm, trung thực, yêu thương, tình nghĩa. Khao khát học chữ để lớn lên làm cán bộ giỏi, cậu bé Tnú đã đi ba ngày đường lên núi Ngọc Linh, bàn tay cần mẫn nhặt đá trắng về làm phấn viết bảng học chữ để rồi khi con chữ không vào đầu, xấu hổ với Mai, tự giận mình, bàn tay gan góc của Tnú đã cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng... Bàn tay của chú bé mưu trí, dũng cảm suốt bao ngày đêm xé rừng, lội suối mang công văn đi liên lạc cho cán bộ cách mạng; khi bị giặc bắt tra hỏi: "Cộng sản ở đâu", Tnú không biết sợ, nói với giặc: "Cởi trói đã, tay mới chỉ được". Khi chúng cởi trói một tay, Tnú để bàn tay tín nghĩa, trung thành lên bụng mình nói: "... ở đây này"! Khi thoát ngục Kon Tum trở về, gặp Mai ở đầu rừng lối vào làng, hai bàn của chàng trai Tây Nguyên xúc động nắm tay Mai, Mai cũng nắm chặt tay anh mà "ứa nước mắt khóc, không phải như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu", những bàn tay thay lời nói yêu thương cho họ nên vợ nên chồng. Trong đêm đau thương của cuộc đời anh ba năm về trước, cũng bàn tay căm giận và yêu thương của Tnú đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay khi phải chứng kiến cảnh giặc tra tấn vợ con; để rồi khi không thể kiềm chế mà lao vào kẻ thù cứu vợ con, Tnú đã bị giặc bắt trói, chúng quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt cháy hai bàn tay anh, mười ngón tay cháy rừng rực như mười ngọn đuốc; mười ngọn đuốc của hai bàn tay Tnú đã thổi bùng lên ngọn lửa căm hờn của dân làng Xô Man khiến họ ào ào lao vào nhà ưng giết chết tiểu đội ác ôn của thằng Dục, giải thoát cho Tnú. Bàn tay Tnú đã được dập tắt lửa, nhưng mỗi ngón đã chỉ còn hai đốt, bàn tay cháy cụt đốt sẽ mãi còn đó như chứng tích đau đớn và căm hờn với kẻ thù tàn bạo mà Tnú sẽ mang theo suốt cuộc đời, bàn tay khiến sau ba năm gặp lại, già làng vẫn không khỏi xúc động, đau đớn và giận dữ. Nhưng cũng hai bàn tay cụt đốt ấy đã chỉ ra một chân lí giản dị: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!" - hai cánh tay rộng lớn đầy sự che chở yêu thương của Tnú có thể ôm chặt vợ con trong giây phút cuối cùng nhưng khi chỉ có hai bàn tay không đương đầu với kẻ thù đầy đủ súng đạn, Tnú không thể cứu được vợ con thoát khỏi cái chết, cũng không thể cứu chính bản thân mình khỏi sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Đúng như lời nói của già làng: "Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được", sau khi từ biệt dân làng đi bộ đội giải phóng, bàn tay Tnú vẫn tràn đầy sức mạnh để có thể cầm súng chiến đấu, vẫn đi tìm những thằng Dục tàn bạo để trả thù - bởi từ sau khi chứng kiến cảnh thằng Dục giết chết vợ con, trong cảm nhận của Thú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục - kẻ thù đã mang một gương mặt chung tàn bạo. Trong một trận công đồn, Tnú đã dùng chính bàn tay cụt đốt của mình bóp cổ tên chỉ huy đồn địch dưới hầm ngầm cố thủ, dùng đèn pin soi thẳng vào mặt nó để kẻ thù có thể nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay căm hờn, quả báo. Vậy là, chỉ qua hình ảnh đôi bàn tay Tnú khi yêu thương, đau đớn, căm giận, khi kiên cường, quyết liệt với sức mạnh trả thù dữ dội, Nguyễn Trung Thành đã nói cho người đọc cả về số phận, tâm hồn, tính cách và cả con đường đi của người con trai bất khuất nơi núi rừng Tây Nguyên.

2. Tnú mang những vẻ đẹp đặc trưng của con người Tây Nguyên thời đánh Mĩ. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

2.1. Bản thân cái tên Tnú cùng với tên làng Xô Man, dân tộc Strá, tên các nhân vật Brôi, Dít, Heng..., hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn... đã tạo nên không khí xa xăm, hoang dại của núi rừng Tây Nguyên khiến nhân vật chính hoàn toàn được đặt vào một không gian thấm đẫm chất Tây Nguyên. 2.2. Tnú mang những nét tính cách rất đặc trưng của người Tây Nguyên. Tuy Tnú đã gan góc, mạnh mẽ, đầy cá tính. Học chữ thua Mai, Tnú đập bể cái bảng nứa, rồi cầm hòn đá đập vào đầu tới chảy máu để tự trừng phạt; đi liên lạc cho anh Quyết, Tnú cứ xé rừng mà đi, lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang... vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác mạnh... như một con cá kình. Vợ con bị giặc tra tấn, Tnú một mình tay không nhảy xổ vào giữa bọn lính cứu vợ con - sự xuất hiện dũng mãnh và sức mạnh khủng khiếp của người trai Tây Nguyên với tiếng hét dữ dội, với hai con mắt là hai cục lửa lớn đã khiến bọn giặc vũ khí đầy mình phải kinh hoàng, sợ hãi. Những hành động của Thú nhanh và mạnh tới mức anh không biết đã làm gì. Chỉ biết thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà ưng. Khi bị giặc đốt cháy mười đầu ngón tay, Tnú đau đớn như điên dại, nhưng anh đã cắn nát môi mà không kêu vì nhớ lời anh Quyết nói: "Người cộng sản không thèm kêu van". Sự dũng cảm gan góc và sức mạnh phi thường của Tnú nhiều khi pha chút hoang dại của núi rừng, cũng vì thế mà câu chuyện cụ Mết kể về anh phảng phất hình bóng những trang anh hùng, dũng sĩ trong những thần thoại, truyền thuyết, những bản trường ca hào tráng của Tây Nguyên xưa. 2.3. Người con trai của núi rừng Tây Nguyên ấy còn mang tinh thần, ý chí và tầm vóc của con người Việt Nam thời chống Mĩ. Khác với A Phủ, với Núp trong kháng chiến chống Pháp phải qua một quá trình tìm đường, giác ngộ, Tnú đến với cách mạng một cách tự nhiên, chóng vánh và tất yếu vì được sống cạnh cán bộ cách mạng khi còn là một cậu bé. Từ nhỏ, Tnú đã được anh Quyết dạy chữ, đã có ý thức lớn lên tiếp bước anh Quyết làm cán bộ giỏi, để lãnh đạo dân làng đánh giặc. Tnú học cái chữ của Đảng, đi tiếp tế, đi liên lạc và bảo vệ cho cán bộ theo lời dạy của già làng: "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Ở Tnú, lí tưởng và sự trung thành với Đảng, với cách mạng gắn liền với tình yêu quê hương, rừng núi, buôn làng. Sau sự kiện nổi dậy của dân làng Xô Man, sau bi kịch đau đớn của gia đình, người trai Tây Nguyên ấy đã thực sự trở thành người chiến sĩ kiên cường, trở thành anh lực lượng trong cái nhìn cảm phục, ngưỡng mộ của dân làng, Tnú đã trực tiếp cầm súng chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, góp phần giải phóng quê hương, đất nước.

3. Tnú có tình yêu sâu sắc, mãnh liệt với quê hương, dân làng, với gia đình, vợ con.

Nỗi xúc động của Tnú khi nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh; nỗi nhớ day dứt trong anh suốt ba năm với âm thanh tiếng chày bình dị, thân yêu của người Strá, của mẹ, của vợ...; sự đau đớn khi đi qua cái cây lớn nơi anh đã gặp lại Mai lần đầu lúc ra khỏi ngục Kon Tum; niềm sung sướng khi gặp lại dân làng, khi nhớ mặt, nhớ tên từng người trong làng dù đã ba năm xa cách; cảm giác ấm áp của một đứa con mồ côi được trở về gia đình lớn của mình, nỗi xúc động khi để cho vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước...- đó đều là những sắc thái tâm trạng của một con người có sự gắn bó và tình yêu tha thiết với quê hương, gia đình, vợ con. Và trong bi kịch đau đớn ba năm về trước, chính tình yêu sâu sắc với vợ con và sự đau đớn tột cùng khi chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn dã man đã khiến Tnú không còn đủ tỉnh táo nhận ra một sự thật: anh sẽ không thể cứu được vợ con khi chỉ có hai bàn tay trắng. Quên đi lí trí, anh đã một mình tay không lao vào quân giặc đầy đủ vũ khí. Bằng cách ấy, tuy Tnú không cứu được vợ con, thậm chí cũng không cứu được chính bản thân mình khỏi sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù nhưng anh đã ở bên vợ con mình trong thời khắc họ cần anh nhất, anh đã đem lại cho vợ con niềm an ủi duy nhất và lớn nhất trước lúc chết, đó là cảm giác được chia sẻ, xót thương, được bảo vệ, che chở trong lồng ngực cường tráng, mạnh mẽ và chan chứa tình yêu thương của một người chồng, người cha.

4. Bài học từ cuộc đời Tnú. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

- Thông qua cuộc đời nhân vật Tnú, thông qua câu chuyện kể xúc động và những lời nhắc nhở trang nghiêm, tha thiết của già làng, Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho người người đọc một nhận thức lớn lao: Tnú có thừa sự dũng cảm, tình yêu, lòng căm thù và ý chí bất khuất, kiên cường, ở Tnú hội tụ tất cả những sức mạnh tinh thần và thể chất phi thường, hoang dại của người tráng sĩ Tây Nguyên, nhưng tất cả những phẩm chất ấy vẫn chưa đủ để anh bảo vệ được cuộc sống của vợ con và của chính bản thân mình khi đương đầu với kẻ thù chỉ bằng hai bàn tay trắng. Tới bốn lần, trong cả lời trần thuật của nhà văn và lời kể của cụ Mết, Nguyễn Trung Thành khắc họa bi kịch của Tnú: "Tnú không cứu được vợ con", để từ bi kịch ấy, từ cái chết đau xót của mẹ con Mai, từ hai bàn tay cụt đốt của Tnú, một bài học lịch sử đã được tổng kết thấm thía: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!". Và đặc biệt qua lời dặn thiết tha của già làng: "Nghe rõ chưa... nhớ ly... ghi lấy... nói lại cho con cháu", bài học ấy mang tính chất vĩnh hằng của một qui luật lịch sử: bạo lực phản cách mạng chỉ có thể bị tiêu diệt bằng bạo lực cách mạng. - Ý nghĩa lớn lao của bài học lịch sử ấy đã được chứng minh ngay trong thực tế chiến đấu oanh liệt của làng Xô Man: khi dân làng đã cầm giáo mác đứng lên chống lại súng đạn của kẻ thù thì tất cả sẽ thay đổi - lửa sẽ được dập tắt trên bàn tay Tnú, lửa xà nu sẽ chỉ soi rõ xác giặc chết ngổn ngang; đuốc xà nu sẽ lại cháy lên để hoà cùng tiếng chiêng hào tráng trong đêm nổi dậy của dân làng; hai bàn tay đã cụt đốt của Tnú cũng sẽ hồi sinh với một sức mạnh trả thù khủng khiếp nhất. Tnú sẽ được sống trong cảm giác tìm lại phần nào những gì mình đã mất: Mai như tiếp tục sống trong hình ảnh người em gái giống chị như hai giọt nước, nhưng nếu người chị dường như chỉ biết nhường nhịn và yêu thương thì Dít còn có thêm đôi mắt cứng cỏi và nghiêm nghị của người chiến sĩ. Đứa con của Tnú và Mai không còn, nhưng sẽ xuất hiện thêm hình ảnh của bé Heng - thằng bé vừa như hình ảnh của Tnú hồi nhỏ, vừa gợi đến triển vọng của tương lai: "Nó sẽ còn đi tới đâu, chưa ai lường được". - Truyện ngắn Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man, khi mở đầu và kết thúc truyện là hình ảnh những đồi xà nu, rừng xà nu nối tiếp tới chân trời, hình ảnh của sự sống trường tồn, tác phẩm đã đưa đến tầng ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: những người dân Tây Nguyên cầm vũ khí chiến đấu không phải để huỷ diệt mà để chống lại sự huỷ diệt, để giữ cho sự sống mãi mãi sinh sôi. Như vậy, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, con đường đi của Tnú, của dân làng Xô Man, cuộc chiến đấu chống Mĩ và tay sai chính là con đường duy nhất đúng đắn bảo vệ sự sống của Tổ quốc và nhân dân ta. → Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong nên cảm hứng chung của văn học 1945 - 1975 khiến nhân vật Tnú không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là một nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Thông qua cuộc đời bi tráng của Tnú, tác phẩm đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên, thể hiện mâu thuẫn không đội trời chung giữa nhân dân Tây Nguyên với bè lũ Mĩ - nguỵ, khái quát chân lí lịch sử lớn lao của thời đại, lí giải sâu sắc và thuyết phục lí do vùng dậy và sức mạnh chiến đấu không gì dập tắt nổi của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.

V. KẾT LUẬN. (Phân tích trọng tâm RỪNG XÀ NU - Nguyễn Trung Thành).

Truyện ngắn Rừng xà nu là một trong những sáng tác thành công nhất về cuộc sống và con người Tây Nguyên, là tác phẩm thể hiện đậm nét phong cách  nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành trong việc miêu tả, kể chuyện, lựa chọn ngôn ngữ, xây dựng hình tượng những yếu tố chịu sự chi phối sâu sắc của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Rừng xà nu là bản anh hùng ca của thời chống Mĩ, là tiếng nói của lịch sử và thời đại, không chỉ ca ngợi ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu ngoan cường của người dân Tây Nguyên mà còn lí giải con đường giải phóng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Truyện ngắn Rừng xà nu là bài ca về tình yêu cuộc sống, là lời nhắc nhở con người hãy làm tất cả vì cuộc sống của đất nước, nhân dân, cũng là của chính bản thân mình./.

TRỌNG TÂM CHINH PHỤC ĐIỂM 10 THPT QUỐC GIA

MÔN: NGỮ VĂN

CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 2000

BÀI 1: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh BÀI 2: Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh) BÀI 3: Tây Tiến (Quang Dũng) BÀI 4: Tố Hữu BÀI 5: Việt Bắc (Tố Hữu) BÀI 6: Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) BÀI 7: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) BÀI 8: Sóng (Xuân Quỳnh) BÀI 9: Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) BÀI 10: Nguyễn Tuân BÀI 11: Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) BÀI 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) BÀI 13: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) BÀI 14: Vợ nhặt (Kim Lân) BÀI 15: Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) BÀI 16: Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) BÀI 17: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) BÀI 18: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) BÀI 19: Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)

Các bài viết liên quan

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Tiếng anh và gợi ý giải...

415 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Giáo dục công dân và gợi...

603 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Địa lí và gợi ý giải...

539 View

Các bài viết được xem nhiều nhất

Theo dõi Captoc trên

Khoa học xã hội

Facebook Group

270.000 members

Khoa học tự nhiên

Facebook Group

96.000 members