Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải

MỘT NGƯỜI HÀ NỘI

Nguyễn Khải

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM. (Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải)

1. Tác giả:

Nguyễn Khải được coi là một trong số những cây bút hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Đời văn của Nguyễn Khải phản ánh sinh động và khá chân thực quá trình vận động của văn học Việt Nam trước và sau năm 1975. Nét nổi bật trong phong cách sáng tác của Nguyễn Khải là chất triết lí - chính luận sâu sắc, thâm trầm; là khả năng phát hiện vấn đề và phân tích tâm lí sắc sảo. Giai đoạn từ 1955 - 1978, các sáng tác của Nguyễn Khải hướng tới chất chính luận khi đề cập đến các vấn đề mang tính thời sự chính trị lớn lao của cả cộng đồng, con người được đánh giá chủ yếu theo tiêu chí đạo đức và chính trị. Những sáng tác của Nguyễn Khải từ sau 1978 thể hiện sâu đậm cảm hứng triết luận khi nhà văn hướng sự quan tâm đến số phận cá nhân và những vấn đề của cuộc sống đời tư thế sự; cách đánh giá con người được mở rộng sang các bình diện văn hoá, lịch sử, xã hội với những tiêu chí thấm đẫm chất nhân văn, giọng văn Nguyễn Khải thời kì này đôn hậu, thấm đượm những chiêm nghiệm và suy tư.

2. Tác phẩm:

Một người Hà Nội là một truyện ngắn rất tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Khải trong thời kì đổi mới đất nước, đổi mới văn chương, rút từ tập truyện Hà Nội trong mắt tôi (1995). Tập truyện thể hiện cái nhìn riêng độc đáo của Nguyễn Khải về đất kinh, mảnh đất nghìn năm văn hiến, nơi nhà văn đã từng sống trong một thời gian dài. Cái nhìn ấy chứa đựng tình yêu sâu nặng với Hà Nội, cũng đồng thời thể hiện những hiểu biết sâu sắc và tinh tế của Nguyễn Khải về nét đẹp của Hà Nội.

II. NHÂN VẬT BÀ HIỀN. (Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải)

Để khắc họa chân dung một con người, nhà văn có thể chọn một thời điểm nào đó trong cuộc đời họ, thời điểm có giá trị như một lát cắt ngang soi chiếu được một hoặc nhiều nét trong tâm hồn, tính cách hoặc số phận của họ (Ví dụ: Hai đứa trẻ - Thạch Lam, Vợ nhặt - Kim Lân), nhà văn cũng có thể quan sát nhân vật trong chiều dài của cả cuộc đời họ (Chí Phèo - Nam Cao, Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài). Với truyện ngắn Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã quan sát nhân vật chính của mình trong hai dòng thời gian, trước hết là thời gian của cả cuộc đời bà Hiền từ khi còn là một thiếu nữ Hà thành tới lúc lấy chồng, sinh con và nuôi con khôn lớn, rồi trở thành một bà già ngoài bảy mươi tuổi; đồng thời, bà Hiền còn được đặt trong một khoảng thời gian dài của lịch sử xã hội từ cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ cho tới sau ngày giải phóng miền Nam. Trong cả hai dòng thời gian đó, qua các mối quan hệ gia đình và xã hội, nhân vật đã được khắc họa sinh động vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá của người Hà Nội.

1. Bà Hiền trong cuộc sống gia đình. (Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải)

Một trong những phẩm chất nổi bật ở bà Hiền là ý thức tỉnh táo, đầy lí trí về trách nhiệm làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ trong cuộc sống gia đình. Ý thức ấy được thể hiện qua những quan niệm của bà về người chồng, về vai trò của người vợ, về việc nuôi dạy và chuẩn bị tương lai cho con cái.

1.1. Quan niệm về người chồng trong cuộc sống gia đình:

- Thời trẻ, bà là một cô gái Hà Nội xinh đẹp, thông minh, được bố mẹ nuôi dạy theo khuôn phép nhà quan, được mở một phòng tiếp khách văn chương, giao du với rất nhiều các tao nhân mặc khách. Gần ba mươi tuổi, khi tính tới việc hôn nhân, bà không chọn ai trong số các quan chức hay văn nghệ sĩ đào hoa, lãng mạn mà lại chọn một ông giáo cấp tiểu học hiền lành chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. - Việc lựa chọn của bà xuất phát từ những suy nghĩ nghiêm túc về gia đình, về trách nhiệm làm vợ, làm mẹ - trách nhiệm này đòi hỏi bà phải chấm dứt những mộng mơ lãng mạn mà bà chỉ coi là những đùa vui một thời son trẻ. Theo suy nghĩ của bà Hiền, một ông giáo tiểu học không chỉ mô phạm, khiêm nhường mà còn là người cần thiết cho mọi chế độ, và đó sẽ là người thích hợp với quan niệm của bà về sự mực thước và bình yên trong cuộc sống gia đình, là người sẽ giúp bà nhiều nhất trong việc nuôi dạy con cái. - Câu nói: Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ cho thấy bà luôn chủ động tính trước mọi đường đi nước bước cho cuộc đời mình, luôn sống cuộc đời của chính mình mà không bao giờ bận tâm đến dư luận xung quanh, không bao giờ bị cám dỗ bởi những danh vọng, vui thú nhờ một ông chồng quan chức hay văn nhân nào đó. Như vậy, chỉ qua việc chọn lựa trong hôn nhân, bà Hiền đã bộc lộ đồng thời cả bản lĩnh và những quan niệm nghiêm túc về cuộc sống gia đình.

1.2. Quan niệm về vai trò, bổn phận của người phụ nữ trong cuộc sống gia đình:

- Khác với những quan niệm quen thuộc về tam tòng tứ đức, bà Hiền luôn đề cao vai trò và thiên chức của người phụ nữ trong cuộc sống gia đình. Bà cho rằng: Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao. Nội tướng thường chỉ những người phụ nữ có khả năng lo toan, quán xuyến, chỉ đạo và quyết định mọi việc lớn nhỏ trong gia đình. - Khái niệm nội tướng không chỉ thể hiện sự tự tin, chủ động, quyết đoán trong việc nhà của một người phụ nữ thông minh, mạnh mẽ mà còn cho thấy bà có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của người mẹ, người vợ đối với việc duy trì nề nếp gia giáo và ngọn lửa ấm áp trong cuộc sống gia đình.

1.3. Quan niệm về việc nuôi dạy con cái: (Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải)

1.3.1. Quan niệm này được thể hiện trước hết ở việc sinh con của bà Hiền. Bà quyết định chấm dứt chuyện sinh đẻ vào năm bốn mươi tuổi bởi suy tính:... nếu tôi và ông sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị. Người mẹ nào cũng yêu thương con, nhưng tình yêu thương của bà Hiền không dừng lại ở tình cảm tự nhiên, cảm tính mà còn rất lí trí, trách nhiệm: không thể yêu con theo kiểu vô trách nhiệm với những quan niệm Trời sinh voi, sinh c hay Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, bà muốn cha mẹ không chỉ cho con sự sống mà còn phải nuôi dạy con nên người, phải chuẩn bị cho con một nền tảng vững chắc cho cuộc sống để có thể tự đứng bằng đôi chân của mình, không phụ thuộc, dựa dẫm vào ai, kể cả người thân, đó cũng chính là chuẩn bị cho con một nhân cách của con người biết tự trọng. 1.3.2. Đặc biệt đáng chú ý là cách bà Hiền dạy con. - Khi các con còn nhỏ, bà dạy con từng đường ăn ý ở, từ cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cải cách nói chuyện trong bữa ăn...Với bà, đó hoàn toàn không phải chuyện sinh hoạt vặt vãnh, nhỏ nhặt mà là những biểu hiện cụ thể của văn hoá, của cách sống, và quan trọng hơn, đó là văn hoá và cách sống của người Hà Nội. Bà luôn nhắc con cháu: là người Hà Nội thì cách đi đng nói năng phải có chuẩn, không được sống Tùy tiện, buông tuồng. Như vậy, với bà Hiền, làm người Hà Nội cũng là tự xác định cho mình một trách nhiệm phải giữ gìn những chuẩn mực văn hoá đẹp đẽ của người Hà Nội. - Khi các con lớn, bà dạy con mình biết tự trọng, biết xấu hổ trong cách sống, cách ứng xử, cũng là cách làm người. Cái chuẩn trong suy nghĩ của bà khi dạy con là lòng tự trọng. Vì muốn dạy con biết tự trọng nên bà Hiền đau đớn mà bằng lòng cho con trai đi bộ đội bởi không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng. Khi không có tin tức gì của đứa con lớn, mấy năm sau, đứa con thứ hai lại làm đơn xin tòng quân, bà Hiền không khuyến khích, cũng không ngăn cản vì nghĩ rằng: ngăn cản nó cũng tức là bảo nó tìm con đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó. Từ đó có thể thấy, theo quan niệm của bà Hiền, nếu con người không còn lòng tự trọng thì cũng coi như đã chết về nhân cách. Câu trả lời của bà về sự đau đớn mà bằng lòng khi cho con lớn đi bộ đội, vẻ mặt buồn bã khi bà tiếp tục đồng ý cho đứa con thứ hai tòng quân đã cho thấy bà không hề gắng gượng che giấu nỗi đau lòng, không nói những lời ồn ào, to tát, bà bộc lộ rất giản dị và chân thực những giằng xé giữa tình yêu con của người mẹ với sự ý thức đầy lí trí về danh dự, về trách nhiệm của người công dân thời loạn đối với đất nước được, bà muốn được sống bình đẳng như những bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì. Sự vui riêng, vui lẻ trong bổn phận, trách nhiệm mà mọi công dân phải thực hiện với xã hội, theo quan niệm của bà Hiền, đó là ích kỉ, là hèn nhát - với lòng tự trọng của bà Hiền, phải sống nhờ, sống bám, dù là vào của cải hay xương máu người khác đều là là không biết xấu hổ, không biết tự trọng và không thể chấp nhận. - Nếu qua truyện ngắn Làng, Kim Lân cho thấy tình yêu nước bắt nguồn sâu xa từ tình yêu quê hương, trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi khẳng định vai trò của tình cảm gia đình, truyền thống gia đình với lòng yêu nước thì trong truyện ngắn Một người Hà Nội, Nguyễn Khải lại giúp người đọc phát hiện một xuất phát điểm độc đáo, bình dị và chân thực của ý thức công dân với đất nước, đó là lòng tự trọng, chuẩn mực nhân cách cao nhất mà bà thường dạy con.

2. Bà Hiền trong nếp sống sinh hoạt của người Hà Nội.

- Sau ngày hoà bình lập lại năm 1954, gia đình bà Hiền vẫn bình thản duy trì những nếp sinh hoạt có thể nhất thời không tìm được sự hòa nhập với mọi người xung quanh, chỉ cần bà tin rằng cách sống ấy không sai trái, hơn thế nữa, nó có thể đem lại cho gia đình bà cảm giác bình ổn, dễ chịu bởi sự thanh lịch, tao nhã. Đó là cách mặc sang trọng rất khác với mọi người xung quanh: mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm; đó là cách ăn cũng không giống số đông: bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã qui định. Giọng văn đậm chất trào lộng của Nguyễn Khải khi miêu tả bữa ăn của gia đình người cháu với cảnh xô bồ, xúm xít, với những nhồm nhoàm, hả hê... đã tạo ra một đối sánh sâu sắc giữa ý thức trân trọng cuộc sống của những con người luôn thuỷ chung gìn giữ nét đẹp thanh lịch của văn hoá Hà Nội với cách sống Tùy tiện, buông tuồng nhiều khi chỉ để tạo ra sự bình dân hợp thời, cũng là xu thời. Với bà Hiền, việc thay đổi nếp sống chỉ để hợp thời cũng là sự giả tạo của những con người không có lòng tự trọng. - Không thay đổi nếp sống sang trọng để tỏ ra bình dân thời kì sau 54, bà Hiền cũng không hề bị cuốn theo dòng chảy vật chất ồ ạt, xô bồ của cuộc sống trong cơ chế kinh tế thị trường sau ngày miền Nam giải phóng. Suốt mấy chục năm, phòng khách của gia đình bà Hiền vẫn không hề thay đổi, những đồ đạc trong nhà từ bộ xa lông gụ, cái sập gụ chân quì chạm rất đẹp nhưng không khảm, cái tủ chùa bày bộ men Thuý hồng, cái lư hương đời Hán... vẫn toát lên vẻ đẹp cổ kính, sang trọng mà trang nhã của linh hồn Hà Nội. Giữa những bon chen, hối hả đời thường, hình ảnh một bà già ngoài bảy mươi tuổi của Hà Nội vẫn bình thản lau đánh một cái bát thủy tiên men đỏ, trong toà nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn, trong gian phòng khách quí phái và lịch lãm, trong khung cảnh mùa xuân mưa rây lả lướt... đã đem lại cảm giác bình yên thật xưa cũ cho tất cả những ai yêu Hà Nội, yêu cái đẹp thanh lịch của văn hoá Hà Nội. Đó là những nếp sinh hoạt mà bà Hiền đã duy trì cho gia đình mình trước tất cả những biến động của thời cuộc, duy trì bằng bản lĩnh và tình yêu với cái đẹp không thể thay đổi của những tầng sâu văn hoá kinh kì. - Suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, gia đình bà không đi tản cư mà ở lại Hà Nội, sau 1954 cũng không di cư vào Nam vì "không thể rời xa Hà Nội". Có lẽ đó không chỉ là tình yêu đối với mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, là niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất kinh kỳ, với thành phố mà bà một mực tin rằng thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi, sâu xa hơn, đó còn là sự gắn bó với một không gian sống cùng những tầng sâu văn hoá đã thấm vào máu thịt bên trong và hiện hữu trong khí quyển bên ngoài của người Hà Nội. → Qua nếp sinh hoạt hàng ngày, qua tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với Hà Nội, có thể thấy bà Hiền là người chỉ thuộc về một không gian văn hoá của Hà Nội, bà không chỉ là biểu tượng cho một thời vàng son đã qua của đất kinh kì mà còn là hiện thân của văn hoá Tràng An đứng vững trước tất cả những thăng trầm của lịch sử.

3. Bà Hiền trước những biến động của cuộc sống xã hội. (Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải)

Bà Hiền xuất hiện trong tác phẩm là một người dường như không liên quan tới những biến động chính trị, tuy nhiên, khi là một thành viên của cộng đồng, bà vẫn không tránh khỏi sự tác động của hoàn cảnh xã hội. Đặt vào bối cảnh đầy biến động của lịch sử, người phụ nữ ấy vẫn giữ vẹn nếp nhà và cốt cách lịch lãm của người Hà Nội. - Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, khi cả gia đình bà Hiền cũng như nhiều người Hà Nội khác còn đang bối rối trong cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng với những người thuộc về chế độ mới thì riêng bà Hiền vẫn không hề thay đổi cách ứng xử của mình. Bà cau mặt gắt với con và rồi đành thở dài, quay người đi khi thấy cả chồng mình cũng hồn nhiên, hồ hởi gọi người cháu họ từ kháng chiến về bằng hai tiếng đồng chí đầy cẩn trọng. Thái độ của bà vừa như không hài lòng, lại vừa như bất lực trước sự chi phối thái quá của xã hội bên ngoài cái không gian vốn cân bằng, bình ổn của quan hệ gia đình - một người tự trọng như bà Hiền sẽ không thể chấp nhận sự thay bậc đổi ngôi trong gia đình theo vị thế xã hội. - Trước những náo nức ồn ào chưa dễ thăng bằng khi cả xã hội tưng bừng hoà vào niềm vui của cuộc sống mới sau ngày giải phóng Thủ đô, bà Hiền nhận xét: Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ? Đó là thái độ bình thản, điềm đạm của những con người từng trải đầy bản lĩnh nên không dễ khóc cười xốc nổi trước những biến động của cuộc đời. Cũng đồng thời thể hiện sự thực tế của người phụ nữ không để mình bị cuốn theo những làn sóng của xúc cảm xã hội, lo nghĩ đến sự làm ăn lâu dài hơn là những phấn khích bốc đồng. Nói chuyện với người cháu, bà cho rằng chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá! Đó là suy nghĩ của một con người có bản lĩnh, sống tự trọng và tự chủ. Có lẽ theo bà Hiền, mỗi con người có nhân cách đều phải biết tự chịu trách nhiệm, tự điều chỉnh cách sống và hành vi của mình trong cuộc sống cộng đồng mà không cần quá nhiều những tác động bên ngoài. Bởi mọi sự can thiệp khách quan đều phải dùng tới những thước đo, những chuẩn mực chung sẽ tạo ra độ chênh không tránh khỏi với từng cá nhân, từng gia đình trong cuộc sống riêng của họ, do vậy sự can thiệp khách quan nhiều khi sẽ trở nên khiên cưỡng, áp đặt, duy ý chí. - Tới thời kì sau 1975, nghe những lời nhận xét không mấy vui vẻ của người cháu về cách ứng xử thiếu lễ độ, thiếu văn hoá của một số người Hà Nội trong thời buổi kinh tế thị trường và cho rằng Hà Nội bây giờ giàu hơn, vui hơn nhưng chỉ là phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa, bà Hiền không bình luận một lời nào nhưng sau đó lại kể cho cháu nghe chuyện cây si cổ thụ bên đền Ngọc Sơn bị bật rễ, để nghiêng sau một trận bão, thành phố đã cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên mỗi ngày một tí, cây si tưởng là chết đứt bỏ ra làm củi vậy mà sau một tháng lại sống, lại trổ lá non. Là người Hà Nội, yêu mến và gắn bó với Hà Nội trong suốt cả cuộc đời, bà Hiền không thể không nhận thấy không gian văn hoá xưa cũ của Hà Nội đã bị thu hẹp dần bởi những cảnh buôn bán, ăn uống nói năng, cư xử theo tâm lí ồ ạt, xô bồ, vụ lợi thời mở cửa. Nhưng sau cái im lặng như một biểu hiện của sự chấp nhận buồn bã, bằng câu chuyện về cây si cổ thụ, bà đã chứng minh cho cháu mình, và cho chính lòng mình tin rằng vẫn còn nhiều người Hà Nội quan tâm, lo lắng bảo vệ những giá trị tinh thần của Hà Nội ngay giữa cơn lốc của văn minh vật chất, vẫn còn nhiều con người thời hiện đại đang kiên trì, nỗ lực giữ gìn sự cổ kính thiêng liêng đẹp đẽ của đất kinh kì ngàn năm văn hiến. - Trong chiêm nghiệm của bà Hiền: thiên địa tuần hoàn, cái vào cái ra của tạo vật không thể lường trước được; và theo cách lí giải của người cháu, có lẽ bà cho rằng: phải biết là trên đời này còn có nhiều lí sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Cái có thể biết là cái hiện hữu trong cuộc sống đời thường, cái mà con người có thể mắt thấy tai nghe, có thể tri giác, cảm nhận và xét đoán theo cách chủ quan của mình. Nhưng nhiều khi trong sự hiện hữu ấy lại chứa đựng những điều không thể biết, đó là những mâu thuẫn, nghịch lí, những uẩn khúc, éo le mà con người không dễ lí giải. Điều bà Hiền nói chính là những chiêm nghiệm của một con người từng trải để hiểu rằng cuộc sống luôn vận động, diễn biến theo những qui luật riêng, nhiều khi vượt ra ngoài sự tiên lượng, suy đoán , lí giải của con người, có thể coi đó là cái Lí huyền diệu, bí ẩn không thể biết (bất khả tri) của tạo hoá. Hiểu được điều ấy, con người sẽ bình thản hơn trước mọi biến đổi, thăng trầm, mọi nghịch lí dù có trớ trêu nhau của cuộc đời, sẽ bớt đi những trăn trở băn khoăn về sự không thể lường trước được... của tạo vật. - Câu nói của bà Hiền, tâm thế ung dung tự tại bà đã giữ trong suốt cuộc đời, và nhất là hình ảnh về sự hồi sinh của cây si cổ thụ bên đền Ngọc Sơn có thể gợi cho người đọc những liên tưởng tới quan niệm về cõi sinh diệt, bất diệt của Cáo tật th chúng khi "Xuân kh bách hoa lạc - Xuân đáo bách hoa khai - Sự trục nhãn tiền quá - Lão tòng đầu thượng lai - Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận - Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" (Mãn Giác Thiền sư). Nhiều quan điểm của bà Hiền cũng là điều mà nhân vật "tôi" và tác giả tỏ ra tâm đắc. Lời trần thuật khách quan về đối tượng đã hoà quyện với lời phân tích mang tính chủ quan của nhà văn khiến hiện thực luôn được hiện lên đồng thời với những chiêm nghiệm, đánh giá của cái tôi cá nhân, làm tăng tính chất dân chủ cho văn chương… - Trong cả cuộc đời trước bao nhiêu biến động của xã hội, bà Hiền đã sống đúng như những quan niệm đầy bản lĩnh của mình, dĩ bất biến ứng vạn biến. Bà không xốc nổi, a dua theo phong trào, theo thời thế và cũng không quay lưng với đời sống xã hội, luôn sống một cách trung thực, tỉnh táo và có trách nhiệm. Sau ngày giải phóng, bà vẫn nuôi người ở vì nghĩ rằng chủ tớ còn cần dựa vào nhau, dù tổ dân phố có vận động không nên duy trì cách sống này. Sự đúng mực trong cách cư xử của bà đã được chính những người làm khẳng định qua cách sống rất thuỷ chung, nghĩa tình của họ. Bà phản đối việc ông chồng định mua một máy in nhỏ để kinh doanh với lí do không thể làm một ông chủ trong chế độ xã hội mới. Bà mở một cửa hàng làm hoa giấy, không thể làm giàu nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì. Việc làm ăn đã được bà tính toán sau trước để vừa đảm bảo cuộc sống gia đình ổn định mà vẫn hoàn toàn yên tâm thanh thản trước những biến động phức tạp của xã hội. Sự tính toán của bà luôn luôn đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng - đó là cách sống của một con người thực tế, bản lĩnh và trung thực - con người luôn dám là chính mình với những chuẩn mực mà mình tin là đúng đắn, sự đúng đắn đem đến lòng tự trọng cho bản thân và sự bình yên cho gia đình. → Cách sống, cách nghĩ, nếp sinh hoạt và văn hoá ứng xử của bà Hiền trong cả cuộc đời, trước những biến động lớn lao của đất nước đã thể hiện bản lĩnh cá nhân của một con người từng trải, trung thực, dũng cảm, thể hiện vẻ đẹp hiểu sâu văn hoá trong cốt cách của một người Hà Nội thông minh và sâu sắc, lịch lãm và tinh tế. Trong cảm nhận đầy ngưỡng mộ của người kể chuyện, bà Hiền - người Hà Nội bình dị ấy thực sự là một hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội... mượn gió bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!

III. NHÂN VẬT "TÔI", NGƯỜI CHÁU HỌ CỦA BÀ HIỀN, NHÂN VẬT NGƯỜI KỂ CHUYỆN. (Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải)

Xuất phát từ xu hướng bình đẳng và cởi mở của văn học thời đổi mới, nhân vật người kể chuyện đã được miêu tả với cả những nét đẹp cùng các góc khuất đời thường. Nhân vật xuất hiện ngay ở đầu tác phẩm với những tính toán khôn ngoan về chính trị. Là người cháu họ của bà Hiền với mối quan hệ hàng ngày khá gần gũi nhưng anh ta luôn tạo ra một khoảng cách an toàn với gia đình người cô bằng những nhận xét mang tính phê phán, bằng những đại từ nhân xưng vừa đủ xa la, vô can: gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ... họ ở rộng quá... cái mặc cũng sang trọng quá... cái ăn cũng không giống với số đông... Ngôn ngữ trần thuật thoáng chút tự trào hài hước đã giúp nhà văn thể hiện thái độ của mình trước cách tính toán khôn ngoan của nhân vật người kể chuyện, từ quan niệm một thời cho rằng: Ở quá rộng là một cái tội... đến việc so sánh cách ăn uống của hai gia đình, vừa như để tự hào khẳng định tính chất bình dân rất an toàn của gia đình mình, vừa thoáng cảm giác bài bác, chê bai, ghen tị: ăn cốt để sống, để làm việc, hay hém gì cái thứ lễ nghi rườm rà của... giai cấp tư sản; từ việc hai vợ chồng nói riêng với nhau một cách đầy thận trọng: Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối, đến việc cẩn thận không ghi tên người cô vào lí lịch cán bộ vì: họ thì xa, bắn súng đại bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào lại thêm phiền. Cách suy nghĩ cực đoan, duy ý chí của một thời, cách sống thận trọng của những con người không dám là chính mình, không dám sống thật với những tình cảm của mình đã được Nguyễn Khải khắc họa sinh động trong giọng kể sắc sảo, hóm hỉnh quen thuộc, tạo sự tương phản với bản lĩnh văn hoá của nhân vật chính. - Nhân vật người kể chuyện còn được khám phá trong nét tâm lí công thần khá phản cảm của những người vừa bước ra khỏi cuộc chiến, đang say sưa trong hào quang chiến thắng, đang được cả xã hội trọng vọng, tôn vinh. Thái độ phê phán của nhà văn đã thể hiện khá rõ nét khi miêu tả hình ảnh người cháu cười phá lên sau câu hỏi của người cô: xã hội nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội ta thì là tầng lớp nào?; rồi sau đó là câu trả lời đầy tự tin, cái tự tin ngạo mạn của những người thực ra chưa hoàn toàn hiểu chân giá trị của cuộc sống: thưa cô, là bọn lính chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi, chứ còn ai nữa; những lời nhận xét thiếu tế nhị và hơi bốc đồng của người cháu về thành phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội đã vấp phải sự im lặng phản cảm của những người Hà Nội, h nín lặng, không một ai hỏi lại, không một ai bình phẩm gì thêm. Thái độ ấy cùng sự tương phản với câu chuyện xúc động của Dũng về Tuất, về mẹ Tuất đã khiến nhân vật người cháu cảm nhận được sự tht thố của mình, cũng đồng thời cảm nhận được lòng tự trọng của những người Hà Nội đích thực. - Cũng nhân vật này đã thể hiện nỗi hoài nghi, lo âu khi thấy Hà Nội đang giàu lên, vui hơn nhưng chỉ là phần xác, còn phần hồn thì chưa. Ông thấy tức và đau khi gặp những người Hà Nội thiếu lễ độ, thiếu văn hoá; ông không tin những người vừa thoát khỏi cái chết khổ, đang hăm hở lao vào cuộc mưu sinh với tâm lí sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi lại còn đủ sự tinh tế để gọt tỉa thuỷ tiên, đủ tâm thế thanh thản, ung dung để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thuỷ tiên. Tâm trạng của người kể chuyện cũng là tâm trạng của những con người yêu quí, trân trọng vẻ đẹp thanh lịch, hào hoa của đất kinh kì nghìn năm văn hiến, vì thế nên lo sợ cuộc sống vật chất tầm thường dẫn làm mai một những giá trị truyền thống của cả một nền văn hoá. - Dù được khắc họa trong cả góc khuất tối với những nét tâm lí chịu sự tác động khó tránh của một thời lửa đạn, nhưng trước sau nhân vật người kể chuyện vẫn là người yêu Hà Nội, hiểu Hà Nội, và đặc biệt say mê, gắn bó với những nét đẹp trong văn hoá của người Hà Nội. Tuy đã từng giữ khoảng cách an toàn với người cô có lí lịch phức tạp, nhân vật này vẫn không thể phủ nhận niềm cảm phục, yêu mến và ngưỡng mộ với bà Hiền. Tình cảm ấy không đơn thuần chỉ là tình cảm gia đình mà còn là biểu hiện tình yêu với Hà Nội bởi bà Hiền chính là sự kết tụ tinh tế, bền vững nhất của những tầng sâu văn hoá đất kinh kì. Bản thân giọng điệu tự trào khi đặt những tính toán khôn ngoan của mình, những cách sống xô bồ, Tùy tiện của gia đình mình trong sự đối sánh với người cô, nhân vật người cháu đã gián tiếp khẳng định thái độ trân trọng với nhân vật chính, cũng chính là tình cảm yêu mến với vẻ đẹp văn hoá kinh kì... Cảm giác bình yên khi nhìn bà Hiền lau đánh một cái bát thuỷ tiên trong phòng khách quí phái và lịch lãm, giữa khung cảnh mùa xuân, trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ấm áo chứ không làm ướt; cảm xúc nồng nàn trước cái duyên dáng hài hòa thật xưa cũ của văn hoá Hà Nội khi không cầm lòng nổi mà thầm kêu: tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn một cái Tết Hà Nội - đó cũng là những cảm giác của tình yêu tha thiết với chất kinh kì trong cảnh sắc và con người Hà Nội hôm nay. Lời bình luận cuối truyện cũng đã thể hiện những xúc cảm dạt dào của người cháu: Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng! Có thể thấy trong lời nhủ thầm tha thiết ấy có bao nhiêu niềm lo âu tiếc nuối cho sự ra đi của một thế hệ người Hà Nội, một thời vàng son, một tầng văn hoá, nhưng đồng thời vẫn chan chứa niềm tin tưởng tự hào, một tình yêu đắm say đầy ngưỡng mộ với mảnh đất kinh kì sẽ mãi chói sáng những ánh vàng! - Được đặt trong vai trò người quan sát, đánh giá và kể chuyện, nhân vật tôi có điều kiện miêu tả chân thực và sắc nét hơn nhân vật bà Hiền và những người Hà Nội khác. Nhưng nhân vật tôi không chỉ dừng lại trong vai trò người kể chuyện, đó còn là một nhân vật đích thực với cả vẻ đẹp và những góc khuất tối. Nếu những góc khuất được đặt trong sự tương phản với nhân vật chính, khẳng định bản lĩnh văn hoá của nhân vật chính, được soi chiếu qua giọng tự trào hóm hỉnh thì những cảm xúc nồng nàn, say mê, những suy tư thâm trầm, cái nhìn lịch lãm và sự trải nghiệm càng giúp tô đậm hơn chân dung văn hoá người Hà Nội.

IV. KẾT LUẬN. (Phân tích chi tiết tác phẩm MỘT NGƯỜI HÀ NỘI - Nguyễn Khải)

Truyện ngắn là một thành công của văn học thời kì đổi mới trong đó nhà văn Nguyễn Khải đã thể hiện không chỉ tài năng nghệ thuật trong miêu tả, kể chuyện, trong phong cách triết luận sắc sảo mà còn bộc lộ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Con người đã được soi chiếu trong nhiều bình diện, nhiều góc độ của cuộc sống đời tư thế sự, được đánh giá chủ yếu theo những chuẩn mực văn hoá, lịch sử, xã hội mang đậm chất nhân văn. Nhà văn được nhân vật hoá trong vai trò người quan sát, chứng kiến, suy ngẫm và rút ra những chiêm nghiệm khiến câu chuyện thêm chân thực trong kinh nghiệm cá nhân; nhà văn cũng đồng thời đứng tách ra xa các nhân vật của mình để thể hiện được nhiều cách nhìn nhận, đánh giá, làm tăng tính dân chủ cho văn chương. Với những nét phác họa tinh tế, ấn tượng, nhân vật bà Hiền cùng một số người Hà Nội khác lần lượt hiện lên sinh động và chân thực, bổ sung cho nhau hình thành bức chân dung nhân cách đẹp sang trọng, lịch lãm và cao khiết của người Hà Nội, những vẻ đẹp kết tinh từ chiều sâu văn hoá kinh kì./.

TRỌNG TÂM CHINH PHỤC ĐIỂM 10 THPT QUỐC GIA

MÔN: NGỮ VĂN

CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 2000

BÀI 1: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh BÀI 2: Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh) BÀI 3: Tây Tiến (Quang Dũng) BÀI 4: Tố Hữu BÀI 5: Việt Bắc (Tố Hữu) BÀI 6: Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) BÀI 7: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) BÀI 8: Sóng (Xuân Quỳnh) BÀI 9: Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) BÀI 10: Nguyễn Tuân BÀI 11: Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) BÀI 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) BÀI 13: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) BÀI 14: Vợ nhặt (Kim Lân) BÀI 15: Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) BÀI 16: Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) BÀI 17: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) BÀI 18: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) BÀI 19: Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)

Các bài viết liên quan

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Tiếng anh và gợi ý giải...

415 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Giáo dục công dân và gợi...

603 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Địa lí và gợi ý giải...

539 View

Các bài viết được xem nhiều nhất

Theo dõi Captoc trên

Khoa học xã hội

Facebook Group

270.000 members

Khoa học tự nhiên

Facebook Group

96.000 members