Phân tích cảnh đợi tàu của hai chị em Liên trong Hai đứa trẻ (dàn ý - 5 mẫu)

Đề bài: Phân tích cảnh đợi tàu của hai chị em Liên trong tác phẩm "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam.

A/ Dàn ý chi tiết

I. Mở bài: - Khẳng định: Tác phẩm nghệ thuật nào cũng có những cảnh đặc sắc đóng vai trò quan trọng trong biểu hiện chủ đề, tư tưởng tác phẩm. - Khái quát chung về cảnh đợi tàu: Nếu Chữ người tử tù có cảnh cho chữ thì có lẽ Hai đứa trẻ (tác phẩm tiêu biểu của nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc - Thạch Lam) có cảnh đợi tàu của hai chị em. II. Thân bài: 1. Lý do đợi tàu của hai chị em Liên - Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi tàu bởi: + Cô được mẹ dặn chờ tàu đến để bán hàng + Nhưng Liên không mong chờ ai đến nữa + Cô thức vì muốn được nhìn thấy chuyến tàu như một hoạt động cuối cùng của đêm khuya ⇒ Thực chất để thay đổi cảm giác, thay đổi cái không khí ứ đọng hàng ngày ⇒ Sự thức tỉnh cái tôi 2. Hai chị em trước khi tàu đến - An: mi mắt sắp sửa rơi xuống, vẫn cố dặn chị. - Chăm chú để ý từ ngọn lửa xanh biếc, tiếng còi vang lại, kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi ⇒ Niềm mong ngóng, chờ đợi, háo hức - Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu - Tiếng gọi em của Liên: cuống quýt, giục giã ⇒ lo sợ nếu chậm một chút thôi sẽ không kịp, sẽ bỏ lỡ - An “nhỏm dậy”, “lấy tay dụi mắt” cho tỉnh hẳn ⇒ hành động nhanh, ngây thơ, đáng yêu nhưng cũng đáng thương. ⇒ Niềm háo hức, mong ngóng chuyến tàu đêm của hai chị em như mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thường ngày 3. Hai chị em khi tàu đến - Khi đoàn tàu đến, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua - Dù chỉ trong chốc lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh” ⇒ Liên thấy một thế giới khác với cuộc sống thường ngày của chị - Câu hỏi/cảm thán của An: “Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?” ⇒ Có thể ngày nào hai chị em cũng ngóng tàu - Đứng lặng ngắm đoàn tàu đi qua, Liên không trả lời câu hỏi của em, trong tâm hồn cô cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống - Liên mơ tưởng về Hà Nội, một Hà Nội sáng rực và xa xăm, một Hà Nội đẹp, giàu sang và sung sướng... Sự hồi tưởng ấy càng khiến Liên thêm tiếc nuối và ngán ngẩm cho cuộc sống hiện tại. - Tàu đến khiến hai chị em sống với quá khứ tươi đẹp và được sống trong một thế giới mới tốt hơn, sáng hơn, rực rỡ, vui tươi hơn cuộc sống thường ngày ⇒ Tâm trạng xúc động, vui sướng, hạnh phúc, mơ mộng 4. Hai chị em khi tàu đi - Phố huyện với từng ấy người “trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống”, trong đó có cả Liên và An - Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn treo trên toa cuối cùng - Khi tàu đi, Liên và An trở về với tâm trạng buồn tẻ, chán ngán cuộc sống thường ngày, niềm vui của hai chị em chỉ lóe sáng rồi vụt tắt - Tất cả chìm trong màn đêm với ngọn đèn tù mù chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đi vào giấc ngủ chập chờn của Liên ⇒ Tâm trạng nuối tiếc, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo ⇒ Miêu tả cảnh đợi tàu của hai chị Liên nói riêng và người dân phố huyện nghèo nói chung, Thạch Lam muốn thể hiện ước mơ thoát khỏi cuộc sống hiện tại, khao khát hướng tới một cuộc sống tươi sáng hơn, ý nghĩa hơn của những người dân nghèo. III. Kết bài: - Nhận định khái quát nhất về cảnh đợi tàu của hai chị em Liên và bút pháp nghệ thuật Thạch Lam sử dụng để tạo nên thành công của cảnh: bút pháp lãng mạn xen hiện thực, nghệ thuật miêu tả nội tâm… - Liên hệ trình bày cảm nhận bản thân về cảnh đặc sắc đó.

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Mẫu 1

Nhà văn Thạch Lam là một nhà văn thường sáng tác về truyện dài nhưng lại có thành công ở thể loại truyện ngắn. Ông có phong cách sáng tác riêng biệt, thường viết loại truyện không có cốt truyện mà chủ yếu là những dòng cảm xúc như một bài thơ trữ tình, nhưng chiều sâu của tác phẩm lại làm cho người đọc ngỡ ngàng, thường mang đến cho người đọc những tình cảm chân thành, tha thiết. Đến với truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, đây cũng là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam, nhẹ nhàng và sâu lắng. Đặc biệt, truyện ngắn đã đem đến cho người đọc một cảnh tượng xúc động ở cuối bài: cảnh chờ tàu, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Hàng ngày, chị em Liên luôn có một thói quen là thức đợi tàu. Sự mong móng về khoảng thời gian tàu đi qua Phố huyện Cẩm Giàng của hai chị em được tác giả khắc họa rõ nét. Lý do chờ tàu của hai chị em Liên khác hẳn hoàn toàn so với những lý do của người dân phố huyện Cẩm Giàng. Nếu người dân chờ tàu để bán hàng, để hy vọng có thể kiếm thêm được một ít vật chất, thì chị em Liên lại muốn thỏa mãn nhu cầu về tinh thần. Khoảng thời gian tàu đến, là lúc hai chị em Liên như được sống với những kỉ niệm của quá khứ, những ngày còn ở Hà Nội với cuộc sống đủ đầy. Tàu đến là một thế giới đầy âm thanh và ánh sáng giúp một ngày tẻ nhạt của hai chị em như có thêm làn gió mới. Giữa cuộc sống nghèo nàn, vẫn có những đứa trẻ giữ được tâm hồn tinh tế, trong sáng và lãng mạn. Hai chị em đợi tàu để được ngắm nhìn đoàn tàu, sống lại những kí ức tuổi thơ vui vẻ, đầy đủ, khoảng thời gian hạnh phúc đã mất trong quá khứ, để được sống ở một thế giới huyên náo hơn, rực rỡ, nhiều ánh sáng, khác hẳn cuộc sống tối tăm, tù túng ở nơi phố huyện này. Chuyến tàu là biểu tượng cho sự sống, có ánh sáng, âm thanh, nó biểu tượng cho một cuộc sống đông vui, náo nhiệt. Khi tàu đến, Liên nhớ về Hà Nội, gắn với những kí ức về gia đình, cuộc sống sung túc. Hình ảnh đoàn tàu mang đến cho Liên không gian ánh sáng và âm thanh của một Hà Nội huyên náo, rực rỡ và vui vẻ. Cuộc sống ấy nó khác hẳn với cuộc sống tẻ nhạt, tù túng và tăm tối, bế tắc nơi phố huyện Cẩm Giàng. Qua cảnh chờ tàu, nhà văn Thạch Lam đã thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé. Đồng thời, tác giả muốn đánh thức những con người đang sống trong cuộc sống quẩn quanh, bế tắc những triết lý về cuộc sống. Đó là: hãy nỗ lực vươn lên, đừng để bản thân chìm trong đêm tối, đừng sống cuộc đời vô nghĩa lý. Hiện thực cuộc sống xung quanh có thể nghèo đói hay thiếu thốn, tù túng hay tăm tối, nhưng con người không bao giờ được phép ngừng tin tưởng và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Hình ảnh đoàn tàu mang đến nhiều ánh sáng cũng thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của tác giả về một tương lai tươi sáng hơn đối với con người. Qua cảnh chờ tàu, nhà văn thể hiện niềm tin vào khát vọng vươn lên của con người. Cho dù cuộc sống có bế tắc hay tăm tối thì họ vẫn luôn có một tinh thần hướng đến tương lai, không nguôi khát vọng đổi đời. Tác giả đã góp tiếng nói của mình để lên án xã hội đã không quan tâm đến số phận con người, để họ phải sống lay lắt từng ngày, trong nghèo đói và bóng tối. Qua đó lên tiếng đòi đổi thay cuộc sống, để con người có cuộc sống xứng đáng hơn. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với việc xây dựng một đoạn kết đầy ấn tượng với cảnh tượng chờ tàu đầy xúc động. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã đem đến cho người đọc những ý nghĩa sâu sắc, thể hiện được chiều sâu tác phẩm và tình cảm nhân đạo từ nhà văn Thạch Lam.

Mẫu 2

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại nhưng tuổi thơ gắn liền với quê ngoại ở phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thạch Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn cho dòng văn học lãng mạn. Thạch Lam là người đôn hậu và tinh tế, điều này ảnh hưởng rất lớn đến các sáng tác của ông. Thành công nhất của Thạch Lam là ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện mà chủ yếu khai thác thế giới nội tâm con người với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, những rung động nhẹ nhàng. Truyện ngắn của ông có giọng điệu như bài thơ trữ tình đượm buồn với văn phong sáng sủa và giản dị thể hiện niềm yêu mến của nhà văn với con người và cảnh vật. Các tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn “Gió đầu mùa”, “Nắng trong vườn” và “Sợi tóc”; tiểu thuyết “Ngày mới”; tiểu luận và phê bình “Theo dòng”; tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). Cũng như nhiều truyện ngắn khác của ông, “Hai đứa trẻ” có sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và trữ tình lãng mạn. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao vừa thấm đượm một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, nhà văn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc, thông cảm và xót thương vô hạn với những người nghèo khổ, khao khát một sự đổi thay đến với cuộc đời của họ. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện một tài năng viết truyện ngắn bậc thầy của Thạch Lam. Đây là một truyện ngắn có cốt truyện đơn giản, một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết ngỡ như là vụn vặt, vô nghĩa nhưng thực ra đó chính là sự chọn lọc và sự sắp xếp một cách chặt chẽ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Qua đó tác giả gửi gắm những tâm tình một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý. Con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức", còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”. Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm. Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé Liên. Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối. Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ. Không một chi tiết éo le, truyện Hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi” là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát. Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông. Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này. Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc.

Mẫu 3

“Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu, chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người”. Quả thực đúng như vậy, những trang văn của Thạch Lam không đi vào những biến cố mà đi sâu vào chiều sâu tâm trạng của con người. Cảnh chờ tàu của hai chị em Liên và An đã được tác giả nắm bắt những chuyển biến tế vi nhất trong tâm trạng của hai nhân vật. Liên và An vốn là những đứa trẻ đã từng sống ở thị thành, nhưng gia đình sa sút nên phải chuyển về phố huyện nghèo. Liên và An tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng tham gia vào việc nuôi sống gia đình bằng cách trông một cửa hàng nhỏ ở chợ. Quanh Liên cũng là biết bao kiếp sống nhỏ bé, mòn mỏi như chị Tí cùng đứa con vất vả mưu sinh, chật vật để sống qua ngày, gia đình bác xẩm góp vào bằng tiếng đàn bần bật trong yên lặng,… Cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, quẩn quanh nhưng những con người nơi đây vẫn luôn hướng về một ngày tươi sáng: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ nhưng cả Liên và An đều cố thức để chờ hoạt động cuối cùng của đêm, đó chính là đợi đoàn tàu khuya từ Hà Nội đi ngang qua. Vì sao những đứa trẻ ngây thơ ấy lại phải cố gắng đợi đoàn tàu đi qua mới có thể ngủ? Có phải chúng nghe lời mẹ dặn? Có phải cố nán lại để bán thêm phong kẹo, cái bánh từ những người khách qua đường. Nhưng không phải “Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”. Trong sự chờ đợi ấy chứa đựng cả những khao khát, ước mong cháy bỏng của những trái tim trẻ thơ non nớt. Bởi vậy, An trước khi đi ngủ đã dặn chị: “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé” khao khát của chúng là vô thức nhưng cũng thật mãnh liệt. Chuyến tàu đi qua, mang đến một thế giới khác, thế giới của âm thanh và ánh sáng rực rỡ. Trong thời gian đợi tàu xuất hiện, chị Liên thả tâm hồn mình vào vũ trụ để cảm nhận hết thảy vẻ đẹp của thiên nhiên khi đêm về. Qua những kẽ lá bàng, “ngàn sao vẫn lấp lánh” trên nền trời, những nụ hoa bàng nhỏ khẽ rơi trên vai chị. Tâm hồn Liên thả trôi theo những cảm xúc bâng khuâng mà chính chị cũng cảm thấy mơ hồ không hiểu hết. Tiếng trống cầm canh ở huyện đánh vang cùng với lời thông báo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi” xua tan sự tĩnh mịch của màn đêm, để chuẩn bị cho sự hoạt động cuối cùng của đêm – con tàu từ Hà Nội dần dần xuất hiện. Ban đầu là ngọn lửa xanh biếc như ma trơi, rồi tiếp đến là làn khói trắng bừng lên từ xa. Liên gọi em dậy và cả hai chị em quan sát kĩ từng chuyển động của chiếc tàu. Tiếng Liên gọi An: “Dậy đi An. Tàu đến rồi” câu nói không đơn thuần chỉ là để gọi An dậy mà trong đó còn kèm cả sự vui thích, nó như một tiếng reo vui, hối thúc em dậy để cùng ngắm nhìn khoảnh khắc đoàn tàu vụt qua. Khoảnh khắc tàu đến, lòng hai chị em vui sướng, hân hoan đến lạ kì, dù chỉ là thoáng qua nhưng cũng đủ để hai tâm hồn tinh tế ấy nắm bắt trọn vẹn sự vật, sự việc đang diễn ra trên tàu: “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền vàng lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Con tàu trong khoảnh khắc đã chỉ còn lại chiếc chấm đỏ nhỏ, rồi khuất sau rặng tre. Bé An hồn nhiên nhưng cũng đã nhận ngay ra dường như tàu hôm nay không đông như mọi khi. Còn Liên thì đã nhận thấy sự thưa thớt cũng như kém sáng hơn của đoàn tàu: “Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Dẫu đoàn tàu hôm nay có kém sáng hơn, có kém đông vui hơn mọi khi nhưng nó từ Hà Nội về, nó mang theo một thế giới khác hẳn đối với liên, đó là thế giới của ánh sáng, của niềm vui và của hạnh phúc. Lòng cô bé trào dâng niềm vui, niềm hạnh phúc khó tả khi được sống lại những ngày xưa khi cô được uống những cốc nước lạnh xanh xanh đỏ đỏ, và nhớ về một Hà Nội sáng rực, lấp lánh. Đêm nào Liên và An cũng đợi tàu, dù có buồn ngủ díp mắt, chúng cũng phải chờ được đoàn tàu đi qua mới ngủ. Đây không phải là một hành động ngẫu nhiên, vô nghĩa mà nó dường như là một nhu cầu, một đòi hỏi thiết yếu đối với Liên và An. Đằng sau đó còn chứa đựng cả những mơ ước, khao khát về một cuộc sống mới đẹp đẽ và hạnh phúc hơn. Hình ảnh những đoàn tàu vụt xuất hiện rồi biến mất nhưng cũng đủ để chúng được trở lại, được sống với những kỉ niệm tuổi thơ êm ấm trước đây. Khao khát chờ đoàn tàu đi qua cũng ánh lên những khát vọng mãnh liệt của những đứa trẻ, đó là khát vọng đổi đời. Tại sao lại đặt khát vọng ấy vào hai nhân vật Liên và An mà không phải là chị Tí, bác Siêu, … bởi chúng là những đứa trẻ, chúng là mầm non, là tương lai của cuộc sống. Bởi vậy, khao khát đổi đời khi được tập trung thể hiện ở hai nhân vật sẽ trở nên ý nghĩa hơn, giàu sức gợi hơn. Đồng thời qua khung cảnh đợi tàu, Thạch Lam cũng thể hiện thái độ cảm thương đối với những số phận người nhỏ bé, bất hạnh phải sống mòn mỏi với cuộc đời chật vật, bế tắc; đồng thời ông cũng trân trọng, nâng niu những khao khát, những ước mơ đẹp đẽ của Liên và An nói riêng, của những người dân phố huyện nói chung. Không chỉ vậy, qua khung cảnh chờ chuyến tàu đêm, Thạch Lam còn dóng lên tiếng gọi tha thiết, lay động tâm hồn người đọc: hãy thay đổi cuộc sống, khiến nó trở nên đẹp đẽ hơn, biến nó thành môi trường sống lành mạnh để những đứa trẻ được sống cuộc hạnh phúc. Với nghệ thuật miêu tả tâm lí và cảnh vật tài tình, cảnh đoàn tàu kết lại tác phẩm đã để lại dư âm, ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc. Đóng lại cuốn sách người đọc vẫn không khỏi thổn thức trước những số phận kiếp người mòn mỏi nơi phố huyện. Nhưng đồng thời cũng chân trọng, nâng niu những mơ ước tha thiết, mãnh liệt của họ về một cuộc sống khác, về sự đổi đời.

Mẫu 4

“Trong nhóm Tự lực văn đoàn, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh là người thực hành, Khái Hưng đả phá vào nếp sống cũ để tiến tới một đời sống mới… còn Thạch Lam một người yêu thương đồng bào, xót xa từ tâm can tỳ phế.” Văn phong Thạch Lam nhẹ nhàng mà sâu lắng nhưng con người trong trang văn của ông không thoát li khỏi hiện thực tàn khốc. Ông yêu thương đồng bào vô cùng, tuy nhân vật của ông dù sống cảnh nghèo khó nhưng họ vẫn không ngừng vươn tới, vẫn ánh lên tia hy vọng tươi mới. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với cảnh đợi tàu của chị em Liên là minh chứng cho điều đó. Liên và An trước đây từng sống ở Hà Nội - chốn thị thành huyên náo, nhộn nhịp có nhiều điều mới lạ. Ở đó hai chị em được mẹ đưa đi chơi Hồ Tây, được ăn những món ngon nhưng kể từ khi cha cô bị mất việc gia đình phải chuyển về quê_nơi phố huyện nghèo để sinh sống. Con người và cuộc sống nơi đây đối lập hoàn toàn với quá khứ xa xăm của Liên. Giờ đây hai chị em được mẹ giao cho nhiệm vụ trông nom cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu bán những đồ vặt vãnh để phụ giúp cho thu nhập gia đình nhưng cũng chẳng đáng là bao. Cảnh vật nơi đây từ lúc chiều tà cho đến lúc về đêm đều u tối, tĩnh mịch, ảm đạm và buồn bã. Những con người xung quanh cô cũng là những kiếp người nghèo khổ, sống lay lắt qua ngày. Chính điều đó đã khiến cho tâm trạng Liên luôn mang một nỗi buồn man mác thấm sâu vào tâm hồn nhạy cảm của người con gái mới lớn. Màn đêm buông xuống lúc con người ta mong muốn được nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi. Liên, An và những con người nơi đây cũng vậy nhưng ngày nào họ cũng cố thức để chờ chuyến tàu từ Hà Nội chạy qua, dù cho hai chị em đã “buồn ngủ ríu cả mắt”, mí mắt An sắp sửa rơi xuống vẫn cố nhắc chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Trong lúc An chợp mắt một chút Liên ngồi khẽ quạt cho em và thả hồn mình vào thiên nhiên. Cô quan sát từ trên cao“ngàn sao vẫn lấp lánh” xuống mặt đất “một con đom đóm bám vào dưới lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy” rồi tinh tế hơn nữa là cô cảm nhận thấy hoa bàng rụng khẽ trên vai từng đợt một. Điều đó cho Liên cảm giác thật mơ hồ khó hiểu. Cô quả là một con người có cái nhìn tinh tế, nhạy cảm. Cô quan sát cả những con người nơi đây không gian vẫn vắng lặng, trống cầm canh đánh tung lên một tiếng khô khan càng làm cho khung cảnh trở nên yên ắng, tĩnh mịch. Mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, bác xẩm… họ vẫn cố thức đợi tàu. Tại sao lại như vậy? Họ đợi đoàn tàu chạy qua để làm gì? phải chăng giống như lời mẹ Liên dặn là “để bán hàng- may ra còn có một vài người mua”. Nhưng không Liên và An chẳng mong chờ gì vào điều đó bởi cô biết họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng. An và Liên thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya, “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Đó là chuyến tàu của khát vọng tương lai. Chuyến tàu đem đến cho hai chị em và những con người ở phố huyện nghèo những điều xa lạ của một thế giới khác hẳn với ánh đèn của chị Tí, ngọn lửa leo lét của bác Siêu và hột sáng thưa thớt của Liên. Ánh sáng trưng của các toa đèn, ánh sáng lấp lánh của đồng và kền, đốm than đỏ rực bay lung lung tất cả ánh sáng ấy xé toạc bầu trời tăm tối, mù mịt nơi phố xá nghèo nàn. Âm thanh của đoàn tàu với tiếng còi vọng lại từ xa, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng huyên náo của hành khách phá tan sự tĩnh lặng, u sầu của không gian. An, Liên và những kiếp người lay lắt cố thức là vì điều đó. Họ háo hức, khao khát nhìn thấy sự đổi thay mà đoàn tàu mang đến cho họ một ước mơ, khát vọng về một cuộc sống mới ở tương lai tốt đẹp hơn. Mặt khác chuyến tàu còn đưa Liên trở về với kí ức xưa với “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”_nơi mà gia đình cô còn khá giả, hai chị em còn được vui chơi. Đoàn tàu như vệt sao băng vụt qua sáng lóa trên bầu trời tăm tối. Đoàn tàu vừa là kỉ niệm đẹp của tuổi thơ vừa là hy vọng ở ngày mai. Thạch Lam thật là tinh tế và sâu sắc khi phát hiện ra khao khát vừa đáng thương vừa đáng chân trọng ấy để cho nhân vật của ông dù sống trong nghèo khó nhưng không tuyệt vọng mà vẫn không ngừng hy vọng, ước mơ. Chi tiết ấy khiến cho ai đã đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân mà nhớ tới lời của bà cụ Tứ động viên, tạo dựng niềm tin cho con dâu và con trai vào một tương lai hạnh phúc, ấm no. Bà chỉ nhẹ nhàng bảo “Vợ chồng chúng mày lo mà làm ăn, rồi trời thương. Ai giàu ba họ, ai khó ba đời bao giờ đâu”. Dù hiện thực nghiệt ngã, cái đói cái nghèo đeo bám hằng ngày lúc con người ta tưởng chừng như tuyệt vọng đứng bên bờ vực giữa sự sống và cái chết nhưng bà cụ già gần đất xa trời vẫn hy vọng, vẫn an ủi cho đôi vợ chồng trẻ một niềm tin. Giá trị nhân đạo ngưng đọng lại ở đó làm nên một tác phẩm có sức sống lâu bền với thời gian. Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: "Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Cảnh đợi tàu của hai chị em Liên đã làm sáng ngời lên tuyên ngôn văn học của ông. Với văn phong lãng mạn, bút pháp trữ tình trong truyện ngắn và sự thành công của nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm nhân vật Thạch Lam nhà văn tài ba đã khắc họa cảnh chờ tàu của chị em Liên thật tỉ mỉ, sinh động để lại cho người đọc người nghe nhiều suy tư, chiêm nghiệm và bài học về niềm tin trong cuộc sống.

Mẫu 5

Thạch Lam là nhà văn nổi tiếng của Văn học Lãng mạn những năm 1930-1945. Là một trong những cây bút của Tự lực văn đoàn, nhưng văn chương của Thạch Lam không quá xa vời thực tế như những cây bút trong nhóm. Mà văn chương của ông nhẹ nhàng chất đời lãng mạn. Nổi bật nhất phải kể đến truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, câu chuyện chờ đợi tàu của chị em Liên nơi phố huyện Hà Nội những năm tháng trước Cách Mạng. Thiên truyện ngắn cốt truyện đơn giản nhưng lại đọng lại những suy ngẫm sâu sắc đặc biệt cảnh chờ đợi tàu của hai chị em Liên. Truyện mở ra bằng tiếng trống thu không, hoàng hôn dần buông xuống nơi phố huyện heo hút. Rồi ánh đèn leo lét xuất hiện, cuộc sống con người quẩn quanh nơi phố huyện khi màn đêm dần bao phủ. Hai chị em Liên ngồi lặng im nhìn ngắm phố huyện, lòng đầy suy nghĩ. Trong nỗi nhớ về Hà Nội qua gánh phở bác Siêu, cũng là lúc tàu chuẩn bị đến. Tàu chưa đến, chị em Liên và những con người nơi phố huyện dù mệt mỏi nhưng vẫn ngắc ngoải, mong chờ điều gì đó. Liên thấy “tâm hồn yên tĩnh.” Cái yên tĩnh bình yên, lặng lẽ trong khung cảnh đêm xuống. Rồi khi tàu đến, từ xa “ngọn lửa xanh biếc như trời”, “tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Tàu đến gần, ánh sáng toả rạng một vùng. Đó là ánh sáng của “Ngọn đèn ghi” “toa tàu đèn sáng trưng, chiếu xuống đường”, “người, đồng và kền lấp lánh”. Âm thanh vang vọng trong không gian tiếng ghi tàu mạnh mẽ “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ.” Đoàn tàu đến đem theo ánh sáng rực rỡ, sáng lóa làm lu mờ mọi ánh đèn leo lét nơi phố huyện, bừng lên mạnh mẽ. Không chỉ mang theo ánh sáng mà tàu đến mang theo cả thứ âm thanh rộn rã khác hẳn tiếng vo ve của muỗi trong hàng hay tiếng ếch nhái từ ngoài đồng ruộng xa. Bằng ngòi bút lãng mạn, bút pháp miêu tả đối lập, Thạch Lam đã khắc họa nên hai thế giới hoàn toàn khác biệt, đối lập để thấy rằng đoàn tàu đến mang theo mọi điều đẹp nhất. Nhưng rồi đoàn tàu nhanh chóng vụt qua để lại bao tiếc nuối, ngậm ngùi. Đoàn tàu đi cuốn theo cả thế giới rực rỡ, vang động. Liên cảm nhận được sự thiếu hụt về cả âm thanh và con người khi đoàn tàu đi qua. Dường như em đã gắn bó với nơi này từ rất lâu, ghi nhớ sâu sắc từng khoảnh khắc. Đoàn tàu đi qua trả lại cho phố huyện sự im lặng. Đoàn tàu đi qua cũng là lúc khiến cho Liên lặng vào mơ tưởng nhớ về Hà Nội, nhớ về những kỉ niệm ngọt ngào xa xôi. Em buồn thương cho hiện tại mờ mịt, tiếc nuối cho quá khứ hạnh phúc và mơ tưởng về một tương lai. Bằng những câu văn ngắt ngắn, liên hoàn Thạch Lam diễn tả sinh động tâm trạng bồi hồi, mang chút gì đó vừa xót thương vừa hi vọng của nhân vật Liên. Liên như thấy mình “sống giữa bao sự xa xôi”. Kết thúc truyện để lại trong lòng người đọc bao sự day dứt. Đoàn tàu đến mang theo ánh sáng lấp lánh, rực rỡ, mang theo âm thanh sinh động, vang vọng. Nhưng nó thuộc về thế giới khác. Thế giới không phải của Liên của An hay cửa con người nơi phố huyện. Nhưng đoàn tàu đi qua lại nhen lên cho những con người nơi đây ước mơ, khát khao về một tương lai dù mờ mịt nhưng họ không hề từ bỏ. Ngày nào họ cũng thức từ sáng đến đêm để đợi đoàn tàu đi qua, để ước mơ về điều gì đó xa xôi. Nhưng ước mơ của họ không biến mất mà âm ỉ chờ đợi điều gì đó làm bùng lên. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” khắc họa sinh động thế giới tâm hồn của những con người cùng khổ trong xã hội cũ trước những năm Cách Mạng diễn ra. Hình ảnh đoàn tàu chỉ xuất hiện thoáng qua rồi vụt tắt mang theo ánh sáng, âm thanh, ước mơ và khát vọng. Như một niềm an ủi một mơ ước không bao giờ tắt, một chút ánh sáng cho ao đời tù đọng, đen tối triền miên của những số phận hẩm hiu, bất hạnh nhưng vẫn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Đó cũng là thông điệp và tình thương của Thạch Lam dành cho những nhân vật.

Các bài viết liên quan

Bài 3: Điện trường và cường độ điện trường-Đường sức điện

104 View

Bài 1: Điện tích Định luật Cu-lông

104 View

Bài 46 : Luyện tập : Anđehit - Xeton- Axit cacboxylic

106 View

Các bài viết được xem nhiều nhất

Theo dõi Captoc trên

Khoa học xã hội

Facebook Group

270.000 members

Khoa học tự nhiên

Facebook Group

96.000 members