Phân tích AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - Hoàng Phủ Ngọc Tường

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

Hoàng Phủ Ngọc Tường

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM. (Phân tích AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - Hoàng Phủ Ngọc Tường)

1. Tác giả:

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một gương mặt nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, cũng là một trí thức yêu nước luôn tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống Mĩ nguỵ ở miền Nam thời kì trước 1975. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể bút kí, Tùy bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vấn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí... Tất cả được thể hiện trong lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.

2. Tác phẩm:

Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên, năm 1986. Bài bút kí lấy cảm hứng mãnh liệt từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế. Dòng sông quê hương được nhà văn soi chiếu từ nhiều góc độ của lịch sử, địa lí, văn hoá... Qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của vùng đất cố đô với trang sử vẻ vang, với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trở thành biểu tượng cho văn hoá và tâm hồn con người xứ Huế.

II. HÌNH TƯỢNG DÒNG SÔNG HƯƠNG

Sông Hương trong cái nhìn của nhà văn đã hoá thân thành một sinh thể có tâm hồn phong phú, có dòng đời trải qua nhiều thăng trầm, gian truân để cuối cùng bộc lộ vẻ đẹp thơ mộng, đầy cá tính, vừa trí tuệ, vừa dịu dàng, vừa ngọt ngào duyên dáng, vừa trầm tĩnh bởi những chiều sâu văn hoá.

1. Dòng sông Hương trong góc nhìn địa lí.

1.1. Dòng sông nơi thượng nguồn. Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng Sông Hương: "Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất". Nhận xét này không chỉ đem đến cảm giác sở hữu đầy thương mến cho dòng quê hương mà còn thể hiện niềm tự hào sâu sắc khi mặc nhiên đặt sông Hương ngang hàng với những dòng sông đẹp trên thế giới, thậm chí còn kiêu hãnh khẳng định sự độc đáo của dòng sông quê hương. Cách khái quát ít nhiều mang sắc thái chủ quan, cảm tính, niềm tự hào đây thiên vị, cảm giác sở hữu - tất cả đều là những trạng thái cảm xúc của tình yêu. Nói tới sông Hương xứ Huế, người ta thường có ấn tượng về sự phẳng lặng, êm đềm của dòng sông trong khung cảnh yên ả thanh bình của Huế. Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn đã không dừng lại ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông Hương trong thành Huế, ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của những cánh rừng đại ngàn, khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với Huế. Đặt dòng sống trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn, nhà văn đã thể hiện cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lí giải cùng cái nhìn sâu sắc về cội nguồn. Và đó cũng là một cảm giác quen thuộc của tình yêu. → Như vậy, cảm hứng nghệ thuật đã được xác định ngay từ những dòng đầu tiên của đoạn trích, đó là tình yêu, là niềm tự hào thương mến với dòng sông quê hương. Với trí tưởng tượng, niềm say mê và tình yêu mãnh liệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính. Hình ảnh so sánh về bản trường ca của rừng già khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn bởi trường ca là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn rừng già lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông - hình ảnh đem đến sắc thái hoang dại cho dòng sông nơi thượng nguồn. Dòng sông khi trôi chảy trong lòng dãy Trường Sơn đã nhận vào nó tất cả những sắc thái phong phú đa dạng của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, khi mãnh liệt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và có khi lại dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đ quyên rừng... - câu văn dài với nhiều vế ngắt liên tiếp đã gợi dậy cái dư vang của trường ca, cái âm vang của rừng già; các danh từ cho thấy sự hoang sơ, bí ẩn; còn phép điệp cấu trúc cùng những động từ rất giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. Những hình ảnh đối lập xuất hiện trong cách miêu tả uyển chuyển, tài hoa đã giúp nhà văn làm hiện lên dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và vẻ đẹp. Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào cùng sự tiếp sức của thác ghềnh, sóng gió, sâu, những những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn; do đó, sông Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa ngời sáng vẻ đẹp rực rỡ, kiêu sa, lại vừa ngời sáng vẻ đẹp rực rỡ, kiêu sa, vừa khơi gợi những say mê, bí ẩn... Không dừng lại trong miêu tả trực tiếp, nhà văn còn dùng phép nhân hoá khiến dòng sông được nhìn như một gái Di-gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng. Tính cách mạnh mẽ, phóng túng của những cô gái bohemieng ưa thích cuộc sống tự do, nay đây mai đó, những cô gái xinh đẹp và bí ẩn, yêu thích hát ca, nhảy múa được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say. Nhà văn lí giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu không phải bằng những kiến thức địa lí đơn thuần mà còn bằng cái nhìn suy tư thấm đẫm tình yêu. Trong cái nhìn ấy, sông Hương hiện ra như một người con gái vốn mang trong mình những sức mạnh hoang dã của rừng già, nay đã tự chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ khi về với Huế - sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau những, thác ghềnh, sóng gió, sự trí tuệ sau những trải nghiệm gian truân. Với cách nhìn ấy, sông Hương trong thành Huế vẫn sẽ mang vẻ êm đềm bình lặng như cách cảm nhận quen thuộc trong thơ ca nhưng không nhạt nhẽo, hời hợt, không buồn tẻ đơn điệu mà thâm trầm, sâu sắc, đó là vẻ đẹp kín đáo của con người tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn. Đây thực sự là cách nhìn mới mẻ, đầy yêu thương và trân trọng với vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương trong thành Huế. → Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hoá đặc sắc đã làm hiện lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt đầy cá tính, từ đó cho thấy cách cảm nhận lãng mạn và suy nghĩ có bề sâu trí tuệ của nhà văn. 1.2. Sông Hương về tới ngoại vi thành Huế. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của dòng sông từ thượng nguồn về tới Huế giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cô gái đẹp trong câu chuyện cổ tích lãng mạn về tình yêu. Trước khi trở thành người tình chung thuỷ và dịu dàng của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và thử thách Từng núi Ngọc Trán, những đồi Tam Thai, Lựu Bảo, Thiên Mụ..., nhưng chính trong thuỷ trình gian truân ấy, qua cách miêu tả tài hoa và cái nhìn tình tứ của nhà văn, sông Hương lại có cơ hội phô khoe tất cả những vẻ đẹp của mình, từ những đường cong tuyệt mĩ trên thân hình mềm mại, kiều diễm cho đến những âu yếm, nồng nàn trong tâm hồn người con gái đang khao khát, đắm say tìm đến với tình yêu. Mỗi chặng đường của sông Hương gắn liền với một địa danh cụ thể, thân thuộc của Huế lại được nhà văn miêu tả theo một cách cảm nhận riêng độc đáo khiến hành trình về xuôi của sông Hương không chỉ được tái hiện chân thực theo dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí mà còn thấm đượm chất trữ tình khi hình dung đó là một cuộc kiếm tìm bờ bến tình yêu của người con gái đẹp yêu kiều. Sử dụng một loạt các động từ mang sắc thái nhân hoá, nhà văn đã vẽ lên một hành trình sinh động, hấp dẫn của dòng sông. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương hiện ra như một cô gái đẹp mơ màng vừa bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài trong rừng sâu, vươn mình ra khỏi vùng núi thâm u, trầm mặc, bừng thức sức sống trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi chuyển dòng liên tục, khi vòng đột ngột, khi uốn mình trong những đường cong thật mềm, khi vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy đi Thiên Mụ, vượt qua vực, đi giữa âm vang, trôi đi giữa hai dãy đồi... Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man của sông Hương, vừa mạnh mẽ với những dư vang của Trường Sơn như còn phảng phất, vừa duyên dáng với những khúc lượn vòng mềm mại, đầy nữ tính. Hành trình của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng dịu dàng, trí tuệ cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên cường giấu trong vẻ dịu dàng duyên dáng. Dòng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và trong cách cảm nhận độc đáo của nhà văn, dòng sông như được phản chiếu những vẻ đẹp của cảnh sắc đôi bờ sông: sông Hương như cô gái digan hoang dã sau khi ra khỏi những cánh rừng đại ngàn đã tự làm đẹp, làm mới mình trong màu xanh thẳm của sắc núi Ngọc Trản; hiền dịu lượn quanh giữa những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên mềm như tấm lụa; nhận lấy ánh phản quang của những ngọn đồi sớm xanh, trưa vàng, chiều tím để rực rỡ, kiêu sa, thấm vào lòng mình vẻ đẹp u tịch của rừng thông, vẻ đẹp trầm mặc tỏa ra từ giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa thời Nguyễn trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ; bừng sáng, tươi tắn khi gặp mênh mang tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà - cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hoà quyện với chất thơ ấm áp của tiếng nơi thôn dã đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ. → Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kì diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên thơ mộng xứ Huế. Thiên nhiên Huế như nguồn phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dòng sông Hương, người con gái dịu dàng của mình. 1.3. Sông Hương khi chảy vào thành phố - Những so sánh, nhân hoá đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến sông Hương hiện ra thuỷ chung và tình tứ giữa thành phố quê hương, vừa dịu dàng mềm mại như một bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm đềm. 1.3.1. Trong cái nhìn của hội họa, dòng sông hiện ra đẹp thơ mộng như một bức tranh lụa huyền ảo với những đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hoà và bình dị. Trước tiên bức tranh sông Hương hiện ra trong một nét thẳng thực yên tâm khi vào đến thành Huế, cách miêu tả đặc sắc gợi cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về tới thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ hành trình không mấy dễ dàng của dòng sông thân yêu trở về từ miền thăm thẳm xa xôi của những cánh rừng đại ngàn. Nghệ thuật nhân hoá khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế. Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ: sông Hương uốn một cánh cùng rất nhẹ sang đến Cồn Hến và trong một liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu. Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông đã thực sự trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật lãng mạn, đắm say của Huế. Bức họa dòng sông tiếp tục hiện ra trong những nét chấm phá về những vườn cau Vĩ Dạ với nắng hàng cau trong trẻo tinh khôi, với lá trúc che ngang e ấp, dịu dàng, với màn sương khói huyền ảo gợi nhớ thi sĩ họ Hàn tài hoa mà bất hạnh...Với niềm hoài cổ của một nhà văn hoá, Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng cái nhìn trầm tư và mơ mộng tới những cây đa, cây ca cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, tới ánh lửa thuyền chài lập loè trong đêm sương - những hình ảnh khiến dòng sông vừa gần gũi với cuộc sống đời thường, vừa xa xăm trong cõi miên viễn của cổ thi bởi sự liên tưởng đến câu thơ Đường đẹp thơ mộng và buồn âm u của Trương Kế: Giang phong ngư hoả đối sầu miên (cây phong bên sông cùng ngọn lửa thuyền chài nhìn nhau trong giấc ngủ buồn - Phong kiều dạ bạc). Dòng sông Hương vẫn tiếp tục được vẽ trong hành trình miên man xa dần thành phố, nhưng sau đó đã đột ngột đi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông để gặp lại thành phố lần cuối... Khúc quanh ngập ngừng tình tứ của sông Hương được nhà văn liên tưởng tới nỗi vương vấn... và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Nhìn dòng sông trong sắc thái nhân hoá ấy, nhà văn đã cho thấy nỗi vương vấn của tình yêu trong chính lòng mình dành cho sông Hương, cũng có cái nhìn lãng mạn của cái tôi tài hoa, tài tử, tài tình. Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Đó là màu xanh thm của chính dòng sông, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong những đêm hội trên sông, sắc màu lung linh phong phú của cảnh vật bên bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi sớm xanh, trưa vàng, chiều tím đến những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long, từ màu thanh khiết nõn nà của chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non đến sắc tối u sầu của vầng cổ thụ, ánh lập loè xưa cũ của ngọn lửa thuyền chài, rồi lại màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc mơ màng sương khói của Cồn Hến. Sông Hương thực sự là một bức tranh với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng. 1.3.2. Qua cách cảm nhận của âm nhạc, dòng sông Hương trong thành Huế đẹp và êm đềm như một điệu slow chậm rãi, trữ tình, sâu lắng. Chất âm nhạc của dòng sông trước hết được thể hiện ở chính âm hưởng, nhịp điệu, tiết tấu của văn bản ngôn từ. Đó là một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng bởi những câu văn dài nối tiếp miên man với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, bởi sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian. Nhịp điệu ngôn từ đã mô phỏng tài hoa nhịp điệu êm đềm, yên ả của dòng sông - chất liệu miêu tả đã tái hiện tài hoa đối tượng miêu tả. Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả nhịp điệu dòng chảy của sông Hương, một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt h yên tĩnh, trong đó, từ nhịp ngắt, yếu tố điệp cho đến hình ảnh so sánh đều làm hiện hữu nhịp chảy chậm rãi êm đềm của dòng sông. Có lúc nhà văn không giấu được tình yêu thiên vị của mình khi so sánh dòng chảy băng băng của sông Neva lúc xuân về với điệu chảy lặng lờ của dòng sông xứ Huế khi cho rằng chỉ dòng chảy êm lặng ấy mới giúp con người cảm nhận được sâu sắc nhất tâm hồn dịu dàng, đa cảm của dòng sông. Cũng trong cái nhìn thương mến, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đưa đến một cách kiến giải thấm đượm xúc cảm cho điệu slow của sông Hương: dòng sông chảy chậm rãi, lững lờ đến thế cũng chỉ vì quá yêu thành phố, quá lưu luyến với người tình mơ ước của mình trước lúc chia xa. (Phân tích AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - Hoàng Phủ Ngọc Tường) Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyền hoặc của tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, âm thanh nồng ấm thân yêu của những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà... âm thanh không  lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, với tiếng nước rơi bán âm từ những mái chèo  khuya; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới nền âm nhạc cổ điển Huế - một giá trị văn hoá đặc sắc của cố đô được sinh thành và tồn tại trên dòng sông xứ Huế, liên tưởng tới bản đàn trong như tiếng hạc của Truyện Kiều...

2. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc. (Phân tích AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - Hoàng Phủ Ngọc Tường).

 Nhìn từ góc độ địa lí, sông Hương khúc thượng nguồn là bản trường ca của rừng già; về tới Huế, dòng sông mang âm hưởng của bản tình ca say đắm, nhưng nếu đặt trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương lại là bản anh hùng ca hào hùng bi tráng; là chứng nhận nhẫn nại và kiên cường của đất nước qua bao thăng trầm lịch sử. Có mặt từ thuở đầu lập nước, sông Hương chứng kiến và tham gia hầu hết những biến cố quan trọng của đất nước trong chiều dài lịch sử. Sông Hương xuất hiện trong lịch sử dân tộc trước hết với vai trò một dòng sông biên thuỳ của đất nước các vua Hùng, thuở mang tên Linh Giang - dòng sông thiêng. Trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đó là dòng sông viễn châu, dòng sông ở chốn xa xôi nhất của Tổ quốc đã tham gia vào những trận chiến đấu oanh liệt để bảo vệ chủ quyền của đất nước Đại Việt thân yêu. Dòng sông cũng đã từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ trong thế kỉ XVIII, dòng sông đã sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của bao cuộc khởi nghĩa. Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỉ XX, sông Hương đã đóng góp sức mạnh để làm nên chiến thắng, từ Cách mạng tháng 8/1945 đến xuân Mậu Thân 1968, sông Hương kiên cường chịu đựng nỗi đau của những mất mát không thể bù đắp khi thành phố Huế bị bom Mĩ tàn phá, khi những di sản văn hoá bị huỷ hoại; cùng với Huế, sông Hương trở thành một nét son trong lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc. (Phân tích AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - Hoàng Phủ Ngọc Tường) Đặt sông Hương trong chiều dài lịch sử từ thời dựng nước các vua Hùng đến thời đánh Mĩ, nhà văn đã thể hiện không chỉ tình yêu mà còn là niềm tự hào sâu xa về dòng sông quê hương. Tác giả coi sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang - hình ảnh cho thấy những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc giấu mình dưới dòng chảy êm đềm bình lặng của sông Hương, sông Hương còn là s thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc - cách miêu tả tinh tế đã làm hiện ra những sắc thái khác nhau cùng tồn tại trong một dòng sông, vì sử thi còn được gọi là anh hùng ca, là thể loại gắn với những chiến công, nhưng màu cỏ lá xanh biếc lại là sắc màu mang chất trữ tình của sự sống đời thường, của tình yêu và sự bình yên; sông Hương vì thế vừa sử thi vừa trữ tình, vừa là thiên anh hùng ca hào tráng, lại vừa là khúc tình ca tươi mát, dịu dàng.

3. Sông Hương với những vẻ đẹp nhìn từ góc độ văn hoá, thi ca.

Qua cách cảm nhận độc đáo và lãng mạn, nhà văn coi sông Hương là cội nguồn sinh thành và không gian tồn tại của nền âm nhạc cổ điển xứ Huế, đó là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương trong đêm, tiếng nước rơi trầm bổng từ những mái chèo khuya thánh thót khiến tác giả liên tưởng đến phiến trăng su của Nguyễn Du trong những đêm dạo thuyền trên sông Hương, nhớ tới giai điệu du dương của Tứ đại cảnh, một bản nhạc cổ về Huế tương truyền do Tự Đức sáng tác. Có lẽ vẻ đẹp buồn của sông Hương đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho âm nhạc và thi ca, và chính dòng sông cũng là những bản nhạc êm đềm, những bản tình ca xao xuyến lòng người. (Phân tích AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - Hoàng Phủ Ngọc Tường) Nhà văn cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không bao giờ lặp lại mình, môi thi nhân tìm cho mình một cảm hứng mới mẻ, độc đáo riêng về dòng sông. Nhưng nguyên nhân có lẽ không chỉ xuất phát từ những cảm nhận chủ quan của người nghệ sĩ mà trước hết là do những vẻ đẹp phong phú đầy biến ảo của một dòng sông luôn biết cách làm mới mình, khơi gợi cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ. Trong trí tưởng tượng say đắm của nhà văn, dòng sông hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau của một cô gái, khi là có gái Di-gan phóng khoáng và man dại, có lúc tự hiến đời mình làm một chiến công, có lúc lại trở về trong cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước... Người con gái ấy chắc chắn phải là cô gái Huế tài hoa và sâu sắc, tình tứ và dịu ngọt, lẳng lơ kín đáo mà rất mực chung tình, biết làm đẹp một cách ý nhị, duyên dáng với chút sương khói như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn khuôn mặt thực của dòng sông... Những bình diện khác nhau ấy khiến sông Hương xứ Huế mang đậm hình ảnh của một đất nước với những con người Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa, đất nước của những con người đã từng Đạp quân thù xuống đất đen - Súng gươm vứt bỏ lại hin như xưa - hùng tráng trong chiến trận, bình dị trong đời thường, sông Hương luôn biết tự thích ứng với từng hoàn cảnh, và cũng tự bộc lộ những vẻ đẹp hoặc oanh liệt, hoặc dịu dàng của mình trong mỗi hoàn cảnh ấy. Sông Hương vì thế đã khơi gợi những cảm hứng khác nhau cho các nhà thơ, qua các thời đại, khi mang vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dng trời xanh trong thơ Cao Bá Quát, khi u uất với nỗi quan hoài vạn c trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, khi là sự thay màu biến ảo của dòng sông trng - lá cây xanh trong thơ Tản Đà, khi lại là vẻ đẹp kì diệu mang sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu... Khi nhắc đến sức mạnh phục sinh tâm hồn của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận ra dòng sông quả thật là Kiều, rất Kiều - niềm trân trọng đã khiến một danh từ chỉ tên nhân vật trở thành tính từ để ngợi ca vẻ đẹp đa đoan say người ta một dòng sông trong veo có thể thanh lọc tâm hồn con người và cuốn đi tất cả những ô uế của cuộc đời, đó cũng là tứ thơ đặc sắc trong bài thơ Dửng dưng của Tố Hữu: "Không gian sặc sụa mùi ô uế - Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi". Đoạn trích kết lại bằng câu hỏi của một nhà thơ Ai đã đặt tên cho dòng sông? Câu hỏi bâng khuâng này cũng là nhan đề bài Tùy bút đã thể hiện không chỉ sự sâu sắc trong suy tư mà còn là một minh chứng của tình yêu - bởi tình yêu đích thực luôn khát khao đi tới tận cội nguồn. Dòng sông được ai đó gọi là sông Hương - cái tên gắn liền với một huyền thoại đẹp, gợi cảm nhận thơm tho, thanh quí, vừa lãng mạn vừa quí giá. Đó cũng là cách giúp nhà văn khẳng định hai phẩm chất cao quí của dòng sông quê hương: cái đẹp vĩnh hằng và danh thơm muôn thuở.

III. KẾT LUẬN. (Phân tích AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Đoạn trích bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông mang đậm phong cách của thể Tùy bút vì chất tự do, phóng túng và hình tượng cái tôi trí tuệ, tài hoa, uyên bác, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những xúc cảm sâu lắng. Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hoá, lịch sử, địa lí, thông qua một văn phong tao nhã, hướng nội và tinh tế..., Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương, chất thơ của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, thấy được bề dày văn hoá của Huế và những nét đằm thắm, duyên dáng riêng của tâm hồn con người đất cố đô./.

TRỌNG TÂM CHINH PHỤC ĐIỂM 10 THPT QUỐC GIA

MÔN: NGỮ VĂN

CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 2000

BÀI 1: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh BÀI 2: Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh) BÀI 3: Tây Tiến (Quang Dũng) BÀI 4: Tố Hữu BÀI 5: Việt Bắc (Tố Hữu) BÀI 6: Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) BÀI 7: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) BÀI 8: Sóng (Xuân Quỳnh) BÀI 9: Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) BÀI 10: Nguyễn Tuân BÀI 11: Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) BÀI 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) BÀI 13: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) BÀI 14: Vợ nhặt (Kim Lân) BÀI 15: Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) BÀI 16: Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) BÀI 17: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) BÀI 18: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) BÀI 19: Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)

Các bài viết liên quan

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Tiếng anh và gợi ý giải...

415 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Giáo dục công dân và gợi...

603 View

Đề thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2023 môn Địa lí và gợi ý giải...

539 View

Các bài viết được xem nhiều nhất

Theo dõi Captoc trên

Khoa học xã hội

Facebook Group

270.000 members

Khoa học tự nhiên

Facebook Group

96.000 members